Page 120 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 120

3.2.1.1. Truyền tlìống vãn hoá trọng tình
             Như phần  2.1.1.3, chương 2 đã trình  bày, xuất phát từ nền  văn minh lúa nước,  một
           trật tự logic, ngày càng được mặc nhiên củng cố trong tâm thức và hành động của mỗi
           người  Việt  và  trở  thành  biểu  trưng  cho  văn  hóa  Việt  Nam,  đó  là  nền  tàng  văn  hóa
           “trọng tình  - thuận  lý ( S ỷhÍ P S )” có  từ bao đời và tiếp tục truyền thừa cho đến  ngày
           nay.  Theo dòng văn  hóa này chúng  ta dễ  nhận  ra các  biểu  hiện  vãn hóa kiến  trúc qua
           hai  khuynh hướng:
             -  Khuynh  hướng  thứ nhất:  Biểu  hiện  tính  chất “dộng”.  Trong  kiến  trúc  có  thổ  nhặn
           biết  qua:  Khối  lồi,  màu  nóng,  thế trực  (thẳng  dứng),  không  gian  sáng,  hình  tròn,  nét
           cong, số lẻ (ba gian, năm gian...).
             - Khuynh hướng thứ hai:  Biểu hiện tính chất “tĩnh”. Trong kiến trúc có thể nhận biết
           qua: Khối lõm, màu lạnh, thế hoành( nằm ngang), không gian tối, hình vuông, nét thẳng,
           số chẵn (hai gian, bốn gian...).
             Tính chất trọng tình (âm - tĩnh) - thuận lý (dương - động) biểu hiện qua kiến trúc Việt
           Nam  từ giữa  thế kỷ  XIX  trở về  trước  thường  nghiêng  vể  khuynh  hướng  thứ hai  nhiều
           hơn. Qua kiến trúc đình, chùa Nam  Bó đã minh chứng cho nhận định này:  Mặt cắt tổng
           thể khối  kiến trúc đình, chùa thường mang “bóng dáng” hình chữ nhật “nằm” (Trừ một
           vài kiến trúc mới xuất hiện sau năm  1954 như chùa Ân Quang, chùa Thiện Hòa...), kiến
           trúc  thường  sử dụng  nhiều  khối  lõm,  cụ  thể  qua  kiến  trúc  hành  lang  (che nắng,  thông
           thoáng,  tránh  mưa...),  hoặc  mặt  bằng  hình  vuông  (nhà  “bánh  ít”),  không  gian  nội  thất
           thường tối... Đây là các cấu trúc văn hóa kiến trúc mang tính truyển thống cơ bản, là tác
           nhân chính tạo nên sự “gần gũi” giữa công trình với người Việt Nam, bời lẽ, chính nhà ở
           của họ cũng xây dựng theo khuynh hướng thứ hai.  Chỉ sau này, khi tiếp cận và giao lưu
           “hỗn  dung” hay “tiếp biến” với  văn hóa phương  Tây,  dã  và đang xuất  hiện  nhiều  kiến
           trúc mang khuynh hướng thứ nhất, đãy là xu thế thời dại tiến bộ phù hợp với cuộc sống
           sôi động, duy lý của xã hội  ngày nay.  Tuy nhiên lối  sống “trọng tình” vẫn là cơ sở của
           bản sắc văn hóa Việt Nam.  Chừng nào cơ sờ ấy còn thì kiến trúc, nhất là kiến trúc đình,
           chùa và kiến trúc mang đặc trưng văn hóa Việt, vẫn có thể được thiết kế xây dựng theo
           khuynh hướng “trọng tình” nêu trên.
             Đặc điểm  văn  hóa trọng  tình  truyền thống  này, vể cơ bản,  vẫn có  thể  ứng dụng dối
           với  các kiến  trúc  xây  mới  hiện  nay,  nhất là kiến trúc  cần mang dấu  ấn văn  hóa truyền
           thống Việt Nam.  Cụ thể hơn:  Kiến trúc mang khối dáng hình chữ nhật nằm hoặc  tương
           tự,  sử dụng  nhiểu  khối  lõm,  bố cục chung với  nhiểu  nét thẳng  ngang  (nét  hoành),  màu
           sắc lạnh v.v... là những gợi ý cho khuynh hướng kiến trúc trọng tình mang tính chất tĩnh,
           đĩ nhiên đặc tính linh hoạt cùa văn hóa trọng tình sẽ cho phép chúng ta biến chuyển, sửa
           đổi trong mọi tình huống cụ thể.
             Mọi  sự vật  hiện  tượng  đều  có  khả  nãng  biến  chuyển  theo  thời  gian,  nhưng  các  nội
           hàm  mang  tính  truyền  thống  thường  ổn  định,  rất  ít  biến  đổi...  Mọi  biểu  hiện  lịch  sử

                                                                      121
   115   116   117   118   119   120   121   122   123   124   125