Page 110 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 110

mới.  Đa số không gian chính điện và hậu tổ được dưa lên lẩu, tầng trệt bên dưới thường
          sử dụng làm giảng đường và trai đường.
            Với cấu trúc mới, khồng gian chính diện được mở rộng, rất ít cột, số gian nhà không
          rõ ràng. Cửa giữa xuất hiện trờ lại.  Ngói sứ tráng men cũng xuất hiện. Với mái dốc bê-
          tông, ngói chì dùng để trang trí hình thức. Mái cong bắt đầu xuất hiện trờ lại.
            Nội  thất ánh sáng chan hòa (dương).  Nhưng không gian bị “bó hẹp” hơn bởi hệ trần
          sàn  bê-tông.  Hoành  phi,  câu  đối...  bằng chữ Hán  biến  mất.  cừa  đi,  cửa  sổ...  sắt,  kính
          kích cỡ lớn  được  dùng  phổ biến.  Nển  lát  bằng vật liệu phong phú  như Granit,  Marble,
          Granito... và gạch hoa xi-măng...
            Gờ chỉ, hoa văn, dđu cột... theo dạng thức Tây phương cũng như trang trí gốm sứ hay
          cẩn  miểng  ít  xuất  hiên  hơn  giai  đoan  trước.  Nhiều họa tiết đắp nổi  rất công  phu  mang
          dáng vẻ Đỏng phương dược tích hợp sử dụng rông rãi trở lại.
            Hình thức thờ cô đọng hơn. Chùa chỉ thờ “độc tôn” (một tượng Phật chính) hoặc “tam
          thế'’ hay “tam tôn” (ba tượng Phật), đình chì còn duy nhất khánh thờ “Thần vị”.
            d) Giai đoạn 1975 đến nay
            Hình  thức  “hoài  cổ” phổ biến, các chi  tiết kiến  trúc “giả cổ” bằng  vật liệu hiện  đại
          (bê-tông,  hổ  xi-mãng,  thạch  cao,  nhôm,  sắt,  kính...)  trở  nên  thông  dụng.  Xu  hướng
          chung nghiêng vể trang trí hình thức mặt tiền, ít chú trọng nội thất.
            Nhìn chung, kiến trúc đình, chùa trong giai đoạn này chưa có thể kết luận được vì nó
          dang tiếp tục tự khẳng định mình và đang tìm tòi một hướng đi thống nhất trong tương lai.

            3.1.3.  Đăc điểm vãn hóa biểu hiện qua giải pháp kết cấu đình, chùa Nam Bộ
            3.1.3.1.  Đặc điếm văn hóa biểu hiện qua giải pháp móng nền
            a) Giải pháp móng
            Nam Bộ, đa phẩn là vùng đất bổi tụ phù sa mới (trừ một số vùng đấl giồng), địa tầng
          bên dưới  thường là đất yếu, “khỏng chân”.  Với bộ khung sườn gỗ và kết cấu khớp linh
          hoạt kiểu “mộng-mẹo”, móng đình, chùa thường là những “tán đá” kê ngay trên lớp nền
          được gia cố bằng lớp đất cứng chắc và rất dầy. Đây lả một cách ứng xử linh hoạt dối với
          mồi trường tự nhiên dựa trên sự kế thừa lịch sử (sẽ trình bày phần sau). Có thể thấy được
          qua cấu  trúc các chùa:  Giác  Viên-TP.HCM, Hội Khánh-Bình  Dương,  Vĩnh Tràng-Tiển
          Giang,...  hoặc các  đình  Tan  Lân-BiỄn  Hòa,  Bình  Hòa-TP.HCM,  Tân  Hưng-Bạc  Liêu...
          Về sau, khi bê-tông được du nhập và ứng dụng thì móng đình, chùa Nam Bộ có biến đổi
          cho phù hợp với cấu tạo của vật liệu mới.
            Đặc điểm vùng vãn hoá Nam Bộ trong ứng xử với mồi trường tự nhiên được tìm thấy
          qua  việc  sử dụng cừ tràm  -  loại  cây  có  rất  nhiều  và  mọc  thành  rừng  ờ các  vùng  ngập
          trũng tại Nam  Bộ, để gia cố nển dất yếu luôn “ngậm nước” tại đây.  Móng bê-tông hiện

                                                                     111
   105   106   107   108   109   110   111   112   113   114   115