Page 109 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 109
3.1.2.4. Các biểu hiện vãn hóa cụ thể qua hình thức kiến trúc trong lừng giai đoạn
lịch sử
a) Giai đoạn Đại Việt
Bình đổ kiến trúc hình vuông theo kiểu nhà “ngũ hành”. Các “nếp” nhà được sắp xếp
theo kiểu “bát dẩn” hay “nối đọi”, thường theo bình đồ chữ “nhị”. Không gian chính
(chính điện thờ Thần, Phật) thường nhỏ hơn không gian phụ [trai đường (chùa); nhà túc
(đinh)]. Số “gian” nhà luôn luôn mang sô' lẻ (dương 1, 3, 5).
Trang trí nội thất mang màu sắc “âm” (đen, gụ), không gian tối và cao rộng. Hình
(hức trang trí thưcmg lấy các yếu tố trong thiên nhiên làm chủ đề chính. Đường nét
“cong” là chủ yếu, đôi khi trừu tượng hóa như hình tượng “cá hóa long”, “con giao lá”...
hoặc “Nhật ông - Nguyệt Bà”... Nội thất có nhiều hoành phi, câu dối viết bằng chữ Hán,
Nôm theo lối lệ, chân, triện..., nền sơn đen hoặc nâu, chữ và hoa văn thếp vàng. Kiến
trúc có hành lang bao quanh, cửa kiểu “thượng song, hạ bản”.
Hình thức thờ phụng hòa đồng, kết hợp Phật với Thần, Tiên, Thánh (chùa) hoặc thờ
Thần với Phật, Thánh, Tiên (đình)..., kể cả người quá cố (chùa).
b) Giai đoạn Pháp thuộc (1858-1954)
- Phân đoạn cuối thế kỷ XIX (1858-1897):
Ngoài việc kế thừa hình thức kiến trúc của giai đoạn trước, lối trang trí cẩn “miểng
kiểu” (mảnh gốm vỡ) trên công trình đã dược sử dụng. Bình đổ dạng chữ “tam” trở
thành phổ biến. Nhà hội dồng, võ ca (Đình) và giảng đường (chùa) xuất hiện. Mặt tiền
chùa không có cửa giữa, sừ dụng nhiều gờ chỉ Tây phương.
Trong nội thất đã xuất hiện một số vật thể trang trí kiểu Tây Phương như đèn chùm,
tủ Tây...
- Phân đoạn đẩu thế kỷ XX (1897-1954):
Mặt bằng cơ bản vẫn ờ dạng vuông hoặc chí biến đổi dôi chút.
Kính và sắt trang trí được dùng phổ biến.
Nội thất ít “âm u” hơn, số luợng các hoành phi, câu đối... giảm thiểu. Bắt đầu xuất
hiện nền lát gạch hoa xi-măng thay thế gạch tàu.
Mặt tiên công trình được trau chuốt chi tiết, công phu bằng các gờ chỉ, hoa văn, đầu
cột... mang dáng tây phương kết hợp với gốm sứ, cẩn miểng kiểu Đỏng phương (Xem
hình 3.49). Hành lang trước mờ rộng thành “thảo bạt” giữ vai trò tiền đường trước chính
điện. Cửa gỗ pa-nô, kính, hoa sắt bắt đẩu được sử dụng.
c) Giai đoạn 1954-1975
Mặt bằng kiến trúc tự do, không theo môt trật tự nào có trước, chỉ theo thế dất mà bổ
trí công trình. Kiểu nhà vuông “ngũ hành” không còn sử dụng trong các đình chùa xây
110