Page 111 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 111

đại cũng có điều kiện phát triển trong giải pháp kết cấu mới của kiến trúc đình, chùa và
            nhà ờ dân gian. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật thời đại trong giải pháp gia cố nền móng
            như cừ bê-tông, kể cả móng cọc nhồi cũng dược nhiều đình, chùa ứng dụng. Do dặc tính
            cấu trúc mới, móng chính thường chôn sâu dưới mặt đất. Bên trên nển, để tạo dáng, chàn
            cột giã được  đắp nổi hoặc ốp thạch cao, tạo cảm giác có tán kê côt như trước kia (Xem
            hình 3.50).  Dạng thức này thường rất dễ nhận thấy ờ các dinh, chùa xây  mới  với khung
            sườn  bẽ-tông  như  các  chùa  VTnh  Nghiêm-TP.HCM,  Ấn  Quang-TP.HCM,  Bửu  Liên-
            TP.HCM, Thiền viện Thường Chiếu-Long Thành,  Phổ Minh-Kiên Giang hoặc các đình
            Mỹ Lộc-Long An, Phong Phú-Thủ Đức, Dương Đông-Phú Quốc...
              b) Giải pháp nền
              Như phần trên đã trình bày, Nam Bộ thuộc vùng đất bồi trũng, vì vậy, hàng năm nước
            lũ lẻn rất cao gây ngập úng, có khi hàng tháng. Để khắc phục và bảo vệ, kiến trúc đình,
            chùa tại Nam Bộ thường có nển rất cao vói nhiều bậc cấp đi lên.  Xung quanh nền dinh,
            chùa (bó vỉa), thường được tận dụng vật liệu địa phương để xây dựng như đá tảng hoặc
            đá  ong  phiến  rất dẩy.  Bên  trên  nền  đất nện  thường  được  trải  một  lớp  cát  để  lát  “gạch
            tàu”,  về  sau được thay thế bằng lớp gạch  hoa hiện đại.  Đây là kết quả của sự giao thoa
            vãn hóa với bản địa (sẽ trình bày sau) và việc ứng xử vói môi trường tự nhiên (dối phó và
            tận dụng tự nhiên). Có thể thấy dạng nển này ờ hẩn hết dinh, chùa cổ như các đình: Hiệp
            Ninh-Tây Ninh, Tân Lân-Biên Hòa, Bình Hòa-TP.HCM, Long Thanh-Vĩnh Long,... hoặc
            các  chùa Bửu  Phong-Biên  Hòa,  Giác  Lâm-TP.HCM,  Hôi  Khánh-Bình  Dương  v.v...  về
            sau,  mặc  dù  đình,  chùa  được  xây  dựng  mới  với  bộ  khung  sườn  và  kết  cấu  hiện  đại,
            nhưng  nền  đình,  chùa  vẫn  dược  tổn  cao  và  bao bó  lại  bằng  tường  gạch  dầy,  ốp  ngoài
            bằng đá chẻ hay đá “da qui”, đôi khi chỉ xây gạch tô hồ kẻ ron (joint). Dễ nhận thấy qua
            các  đình  cách  tân  như  Phong  Phú-Thù  Đức,  Thắng  Tam-Vũng  Tàu,  Mỹ  Phước-An
            Giang,... hoặc chùa Từ Hiếu-TP.HCM, Thiên Khánh-Long An, Giác Thiên-Vĩnh Long.
              3.1.3.2. Đặc điểm văn hóa biểu hiện qua bộ khung sườn chịu lực
              Trong nhận dạng chung về mặt hình thức thì bộ khung sườn chịu lục cùa đình và chùa
            gần nhu tương đồng nhau, có thể chia thành 4 dạng thức như sau:
              a) Bộ khung sườri thuần gỗ truyền thống
              Đây là dạng thức khung  sườn  chịu  lực làm  toàn bộ bằng gỗ có từ trước khi kỹ  thuật
            xây dựng phương tầy được du nhập vào Việt Nam, khoảng giữa thế kỷ XVII trở vể trước
            và còn kéo dài đến cuối  thế kỷ XIX.  Việc sử dụng bô khung  sườn  thuần gỗ (Xem hình
            3.51) là một ứng xử khác trong việc tận dụng môi trường tự nhiên lúc bấy  giờ - khi mà
            gỗ còn  là vật liệu xây dựng có  thừa thãi trong buổi đầu khai  hoang lập làng.  Theo thời
            gian, dưới khí hậu nóng và ẩm khắc nghiệt tại đây, vật liệu gỗ, nhất là các bộ phận bao
            che bên ngòai,  bị hư hoại dẩn theo năm tháng. Từ nguyên nhân  trên cho thấy,  khó tìm
            được bộ khung sườn thuần gỗ truyền thống còn tồn tại nguyên vẹn trong các đình, chùa

            112
   106   107   108   109   110   111   112   113   114   115   116