Page 13 - Được Học Và Thuốc Thiết Yếu
P. 13

-  Phân  phôi  thuôc:  ớ   trẻ  sơ  sinh,  lượng  nước  của  cơ  thể  nhiều  và  ở  ngoại  bào  nhiều
        hơn  ở  nội  bào.  Tỉ  lệ  gan/thể  trọng  và  não/thể  trọng  cao  hơn  so  với  ở  người  lớn.
            Nhiều  thuốc  gắn  kém  vào  protein  -  huyết  tương  của  trẻ  sơ  sinh,  do  hàm  lượng protein
        -  huyết tương ở chúng giảm về  số lượng và  kém về  chất  lượng.  Vì  vậy,  nhiều thuốc tăng tác
        dụng,  tàng độc  tính,  như theophylin,  aminophylin,  phenylbutazon,  luminal  (gardenal).v.v...
            Tỉ  lệ  não/thể  trọng  ở  trẻ  sơ  sinh  cao  hơn  ở  người  lớn,  tế   bào  thần  kinh  chưa  biệt
        hóa  đầy  đủ,  não  trẻ  sơ  sinh  chứa  nhiều  nước  so  với  não  người  lớn,  hàng  rào  máu  -  não
        chưa  phát  triển  đủ,  lưu  lượng  máu  não  ở  trẻ  sơ  sinh  cao  hơn  ở  nưgời  lớn.  Vì  lẽ  trên,
        thuốc  vào  thần  kinh  trung  ương  của  trẻ  nhanh  hơn,  nhiều  hơn  ở  người  lớn,  tác  dụng  và
        độc  tính  của  những  thuốc  đó  tăng  lên.
            -  Chuyển  hóa  thuốc:  Gan  trẻ  sơ  sinh  chưa  đủ  enzym  chuyển  hóa  thuôc,  nên  thuốc
        dễ  tích  lũy,  tác  dụng  và  độc  tính  thuốc  sẽ  tăng  lên.
            -  Thải  qua  thận:  Lúc  mới  ra  đời,  thận  chưa  làm  đủ  chức  năng  thải  trừ  thuốc,  lượng
        máu  qua  thận  còn  yếu,  nên  nhiều  thuôc  sẽ  chậm  thải  và  gây  độc  cho  trẻ,  ví  dụ  strepto-
        mycin,  gentamicin,  aspirin,  sulfamid,  penicilin,  paracetamol,  luminal...
            -  Những điểm  khác:  Trẻ  không chịu  được thuốc  làm giảm  nước và  thay  dổi  chất điện
        phân  (như  các  thuôc  nhuận  tràng,  tẩy,  long  đờm,  gây  nôn,  lợi  niệu...)
            Tránh  dùng  tetracyclin  khi  răng  đang  phát  triển.  Tuyệt  đôl  không  dùng  mọi  chế
        phẩm,  hoạt  chất  của  thuôc  phiện  (morphin,  pethidin..)  cho  trẻ.
            b)     Người  có  tuổi;  Trong  thực  tế,  tai  biến  do  dùng  thuôc  ở  lứa  tuổi  60  -  70  thường
        gấp  đôi  so  với  tuổi  30  -  40,  đó  là  do  những  tổn  thương  dằng  dai  của  những  quá  trình
        bệnh  lý  kéo  dài  lê  thê  trong  suốt  cuộc  đời  đã  dẫn  đến  giảm  sút  những  tế  bào  có  hoạt
        tính,  làm  cho  người  có  tuổi  dễ  nhạy  cảm  với  độc  tính  của  thuôc.
            Kê  một  đơn  thuôc  nhiều  vị  là  điều  cố tránh,  gễ  gây  nguy  hiểm  cho  người  già,  vì  có
        thể  tạo  tương  tác  thuốc  bất  lợi  và  do  đó,  những  tác  dụng  không  mong  muôn  của  thuốc
        cũng  tăng  lên.

            Đối  với  người  già,  phải  có  y  tá,  thân  nhân  trực  tiếp  hướng  dẫn  dùng  thuôc,  dù  bất
        kỳ  với  dạng  bào  chế  nào.

            Khuynh  hướng  chung  ở  người  già  là  thuốc  chậm  hấp  thu  ở  ống  tiêu  hóa,  gắn  kém
        vào  protein  -  huyết  tương,  gan  "già  cỗi"  nên  khó  chuyển  hóa  thuốc,  thận  cũng  "hóa  già"
        nên  kém  thải  thuốc.

            *  Vì  những  lẽ  trên,  nguyên  tắc  chung  dùng  thuốc  ở  người  có  tuổi  là:
            -  Đề  phòng  và  chữa  bệnh,  có  nhiều  biện  pháp,  nếu  cho  kết  quả  tôT  mà  không  cần
        thuôc  thì  là  biện  pháp  tôT;  không  nên  cứ  nói  đến  bệnh  là  nghĩ  ngay  đến  thuôc.
            -  Nếu  nhất  thiêt  phải  dùng  thuốc  mới  chữa  được  bệnh  thì  dùng  càng  ít  loại  thuốc
        càng tôt,  chọn thuôc ít độc,  có  "chỉ  sô  điều trị"  rộng mà  hiệu lực  cao,  nên  chọn con đường
        dùng  thuôc  an  toàn  nhất  mà  vẫn  bảo  đảm  công hiệu,  ví  dụ,  nếu  khó  ngủ  có  thể  điều  trị
        toàn  diện  (xoa  bóp,  thể  dục  liệu  pháp,  điều  chỉnh  giờ  giấc  làm  việc  sinh  hoạt,  hạn  chế
        dùng  thuốc  là  hóa  chất  mà  dùng  thức  ăn  -  thuôc,  như thuốc  nguồn  gốc  cây  cỏ:  hạt  sen,
        cùi  nhãn,  lạc  tiên,  vông  nem...).


                                                                                         13
   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18