Page 88 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 88

3. Đường (Sugar)

                Không giốhg như đường tinh bột,  đường có vị  ngọt được nhận biết ngay từ khi
            trẻ bắt  đầu  bú  sữa  mẹ  (đường lactose).  Có bốn vị  được  cơ thể phân biệt rõ  ràng là
            ngọt, chua,  mặn và đắng, trong đó vị ngọt của nhiều loại đường carbon hydrat có vị
            ngọt khác nhau.  Lấy đường kính (sucrose) là tiêu chuẩn (100%)  độ ngọt của đường,
            thì  glucose  từ 61-70,  đường ửuctose  130-180,  đường mạch  nha  maltose  từ43-50 và
            lactose từ 15-40.
                Hiện nay đường kính  (Sucrose) vẫn được  sử dụng phổ biến và rộng rãi nhất để
            bảo quản thực phẩm do tạo áp lực thẩm thấu (osmotic pressure) lên men rượu, cồn,
            sản xuất các loại nước giải khát, bánh kẹo, thức ăn tráng miệng...

            4. Đường huyết và sự điểu hoà nội tiết tố

                Nồng độ glucose trong máu người trưởng thành có lượng từ 3,9-5,8mmol/L (70-
            105mg/ml). Khi khẩu phần ăn đủ lượng carbon hydrat, lượng glucose sẽ tăng từ 6,5-
            7,2  mmol/L  và  khi  nhịn  đói  lượng  glucose  sẽ  giảm  còn  3,3-3,9mmol/L.  Quá  trình
            điểu hoá lượng glucose trong máu phụ thuộc vào sự hoạt động của não và khi luợng
            glucose bị giảm,  cơ thể có thể sử dụng lượng xeton  (ketone) từ quá trình thuỷ phân
            chất béo trong cơ thể (13).  Quá trình tác động trên rất cần thiết trong nhịn ăn,  khi
            não  của  người  trưởng  thành  cần  sử  dụng  140g  glucose  ngày  (14),  trong  đó  130g
            glucose  được  sử  dụng từ nguồn  không phải  là  carbon  hydrat.  Nếu  tiêm  nội  tiết  tố"
            insulin  có  thể  nhanh  chóng  giảm  lượng  glucose  huyết,  dẫn  tới  hiện  tượng  co  giật
            (convulsions) và có thể chết, nếu không can thiệp kịp thồi.

                Trong  cơ  thể,  đường  carbon  hydrat  được  thuỷ  phân  thành  đường  đơn  glucose,
            galactose và íructose sau khi hấp thu vào máu sẽ được vận chuyển đến gan và thận
            rồi  tới  các  tô  chức  mô  ngoại  biên  (peripheral  tissues)  để  thực  hiện  quá  trình
            phosphoryl hoá do tác động của men hexokinase. Tại gan các tế bào có thể biến đổi
            galactose và ửuctose thành glucose.
                Trong  cơ  thể,  glucose  huyết  có  thể  được  điều  hoà  bằng  nội  tiết  tô' và  cơ  chế
            chuyến  hoá.  Nội  tiết  tố chính  là  để  điều  hoà  kiểm  tra  mức  glucose  trong  máu  là
            insulin,  glucagon  và  epinephrin  (adrenalin).  Ngoài  ra  còn  có  hormon  thyroid,
            glucocorticoid và nội tiết tố tăng trưởng (15).

            4.1.  Insulin

                Trong cơ thể insulin  được coi là  trung tâm  điều  hoà  glucose  huyết và  được bài
            tiêt hàng ngày từ 40-50 đơn vị, tại đảo Langerhans tuyến tụy. Lượng dự trữ khoảng
            15-20%  tại  tụy.  Nồng độ  glucose  trong máu  sẽ  điều hoà  lượng bài tiết insulin.  Khi
            lượng đường huyết tăng (hyperglycemia) sẽ kích thích bài tiết insulin. Lượng đường
            huyết giảm  (hypoglycemia) sẽ ức chế bài tiết. Trong trường hỢp tuyến tụy không có
            khả năng bài tiết đủ insulin hoặc bài tiết quá. ít sẽ gây bệnh đái tháo đường.  Bệnh
            đái tháo đường rất phổ biến tại các nưốc đã và đang phát triển, được gọi là bệnh đái
            tháo  đường  typ  I  (phụ  thuộc  vào  insulin  IDDM)  và  bệnh  đái  tháơ  đường  typ  II
            (không phụ thuộc vào insulin,  NIDDM).  Đái tháo  đưồng typ  II chiếm tối  90% tổng
            bệnh nhân bị đái tháo đường.


            84
   83   84   85   86   87   88   89   90   91   92   93