Page 455 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 455

3.5.  C h ú n g  lo ã n g  x ư ơ n g  ( o s te o p o r o s is )

         Năm  1994  Hunt  IF.  và  nhiều cs khác  đã  khảo  sát  trạng  thái  cấu  tạo xương
     giữa hai nhóm người ăn chay và không ăn chay. Tiếp theo Parsons và cs người Đức
     năm  1997  đã  nhận  thấy  một  số thanh  niên Đức bị loãng xương đều  có  tiểu  sử  ăn
     chay  ngay từ khi  còn nhỏ (16).  Hu JF.  và cs (1993)  đã  khảo  sát trong 5  quận tại
     Trung  Quốc  và  nhận  thấy  4  quận  có  cấu  tạo  xương tốt  hơn,  không bị bệnh  loãng
     xương do lượng calci ăn vào hàng ngày là 724mg do có uốhg sữa, trong khi tại quận
     không uô"ng sữa, lượng calci chỉ đạt từ 230-359mg/ngày. Lượng protein ăn vào của 4
     quận có uông sữa là 75g/ngày và không uống sữa là 49-57g/ngày.

         Nguy cơ loãng xương của nhóm người ăn chay còn phụ thuộc vào một sô" yếu tô"
     như khẩu phần ăn thiếu calci,  thiếu vitamin D và ăn lượng chất xơ quá cao có thể
     dẫn  đến  nguy  cơ bị  loãng xương.  Mặt khác cũng cần chú ý  sử  dụng lượng protein
     vừa phải,  tảng cường sản  phẩm  chế biến từ đậu  tương do có nhiều nội tiết tô" thực
     vật  (phytoestrogens)  có  thể  phòng  được  bệnh  loãng  xương.  Tuy  nhiên  giả  thuyết
     này cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ thêm (17).


     4.  Ăn  chay và  sự đáp ứng sinh  lý  học

     4.1.  T ố c   d ộ  c h u y ê n  h o á

         Quá trình chuyển  hoá  chất của  người ăn chay đã  có  tác  động làm  giảm  nhiều
     bệnh và có thế bị ảnh hưỏng do thành phần các chất dinh dưỡng trong khẩu phần
     ăn.  Người  ăn chay thường giảm  cân  nặng và  không béo như người không ăn chay
     Tuy nhiên đế giải thích thoả đáng được sự khác nhau cần phải tiếp tục khảo sát thử
     nghiệm. Có thể do nguyên nhân nhu cầu năng lượng thấp của người ăn chay so với
     không  ăn  chay  hoặc  có  sự  khác  nhau  trong  tốc  độ  chuyển  hoá  tĩnh  (resting
     metabclic  rate,  RMR)  và  tác  động  nhiệt  đôi  với  thức  ăn  (thermic  effect  of meal,
     TEM) c ã làm giảm sự tiêu phí nhiệt lượng.

         Lưi ing chất xơ tiêu hoá ăn vào cao và khả năng lưu giữ trong cơ thể có thòi gian
     dài hơi  trong nhóm người ăn chay sẽ giảm  sự sinh nhiệt sau bữa ăn và có thể dẫn
     đến sự giảm cần, đỏ"i vối người ăn chay. Người ăn chay thường có tốc độ chuyển hoá
     tĩnh  (RMR)  cao  hơn  người  không  ăn  chay  và  sự  xuất  hiện  norepinephrin  trong
     huyết tương thường ỏ  mức cao và nhanh  hơn.  Các  tác giả đã  kết luận thành phần
     các  chât  dinh  dưỡng và  norepinephrin trong huyết tương có  thể  không phụ  thuộc
     với  tác  nhân  điều hoà  (modulators) của tô"c độ chuyển hoá tĩnh  (RMR)  nhưng hiệu
     quả thường thấp (18).


     4.2.  M ò i trư ờ n g  r u ộ t k ế t ( c o lo n ic  m ilie u )
         Khảo sát trong cộng đồng người ăn chay nhận thấy so với người không ăn chay
     tỉ  lệ  ung thư  rất  thấp.  Một  sô" tác  giả trong khảo  sát đã  nhận xét trong phân của
     người  ăn  chay,  nồng  độ  acid  mật  thấp  hơn  người không  an  chay.  Một  sô" khác  lại
     nhận  thấy  sự  khác  nhau  không rõ  rệt.  Cũng  có  khảo  sát  đã  xác  định  lượng nước
     trong phân của người ăn chay thấp nhưng khối lượng thường lốn (19). Người không
     ăn chay do ăn nhiều mỡ nên có lượng acid béo bão hoà cao và hình thành nhiều acid
     deoxycholic là yếu tô" tác động gây ung thư kết tràng (colon cancer).



                                                                                       447
   450   451   452   453   454   455   456   457   458   459   460