Page 337 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 337

3.8.  Sán phẩm khối u kích thích sản sinh  đơn bào
     4.  Sự tiêu  hao  năng  lượng  và  chuyên  hoá  glucid,  lipid,  protein  đối  với  bệnh
     nhãn ung thư

         Do bệnh nhân bị ung thư đều có khuynh  hướng giảm cân ngay ở giai đoạn ban
     đầu nên nhiều nhà khoa học đã xác định sự rất cần thiết phải kiểm tra sự tiêu thụ
     năng  lượng  ở  trạng  thái  nằm  yên  (REE-  Resting  Energy  Expenditure)  của  bệnh
     nhân  ung  thư bằng biện  pháp  kiểm  tra  gián  tiếp  nhiệt  lượng  theo  giá  trị  dự  đoán
     bằng phương trình Harris-Benedict (5,  6 ).  Khi kiểm  tra REE nhiều tác giả đã nhận
     thấy  trong  nhóm  bệnh  nhân  ung  thư .đường  ruột  dạ  dày  có  một  sô" bệnh  nhân  bị
     giảm hoặc tăng chuyển hoá  trong khi  một sô" bệnh nhân khác vẫn chuyển hoá bình
     thường.  Một  sô" tác  giả  lại  nhận  thấy  không có  sự  khác  nhau  giữa  REE  của  bệnh
     nhân  bị  ung  thư trực  tràng và  kết  tràng.  Đặc  biệt  trong  nhóm  bệnh  nhân  bị  ung
     thư  giô"ng  nhau,  giảm  cân  nặng trung bình  khoảng  17%  và  tiêu  hao  năng lượng ỏ
     trạng  thái  nằm  yên  REE  hàng  ngày,  thường cao  hơn  nhóm  bệnh  nhân  mắc  bệnh
     không ác tính (belign disease) bị giảm cân nặng tương tự. Với bệnh nhân bị kiệt sức
     do  ung  thư  tuyến  tuỵ  cũng  tăng  lượng  REE/kg/ngày.  Khi  cắt  khổi  u  (tumor
     resection) đã dẫn đến sự giảm REE sau phẫu thuật.                           '

         *  Chuyển  hoá glucid:  bệnh  nhân  ung  thư  thường  dung  nạp  glucose  kém,  đặc
     biệt trong giai đoạn,  phát triển khối u.  Sự kém  dung nạp glucose là kết quả của sự
     tăng đề kháng insuline cả nội, ngoại sinh và không sản xuất đủ insulin cho nhu cầu
     chuyển  hoá  đường.  Do  đó  trong  bệnh  nhân  bị  ung  thư,  tỷ  lệ  sản  sinh  glucose  nội
     sinh tăng cao và  có liên  quan  đến  giảm  cân  nặng cơ thể.  Ngược lại  giảm  cân  nặng
     lại ảnh hưởng đến chuyển hoá tạo glucose (glucose turn over). Tỷ lệ oxy hoá glucose
     tăng theo  tỷ lệ  phát  triển khối  u:  23,9%  ỏ nhóm  đối chứng;  32,8%  ở giai  đoạn  mói
     bắt  đầu  và  43,3%  ở  giai  đoạn  đã  phát  triển.  Tại  bảng  5.19:  giới  thiệu  sự  rốì  loạn
     chuyển hoá glucid liên quan tới thể ung thư đã phát triển (advanced cancer).

                  Bảng 5.19.  Rối loạn chuyển hoá Glucid trong ung thư đã  phát triển

        Kém dung nạp glucose, kháng insulin.
        Sản sinh insulin không bình thương và gây chậm trễ sự chuyển hoá glucose.
        Tăng sản xuất glucose, tăng chuyển hoá tái tạo glucose và
        Tăng hoạt tính của vòng Cori (Cori cycle activity).



         Tại vòng Cori,  glucose  được giải  phóng từ tế bào biểu  mô sẽ chuyển hoá  thành
     lactat và được tái tổng hợp thành glucose trong gan.

         * Chuyển hoá lipid: nhiều khảo sát đã xác định bệnh nhân bị ung thư thường bị
     suy  giảm  chuyển  hoá  lipid  kéo  theo  sự  suy  giảm  protein  làm  tăng  sự  tiêu  mõ
     (lipolysis),  tăng acid béo  tự  do và  quay  vòng glycerol  (glycerol  turn  over),  giảm  sự
     tạo mỡ và tăng lipid trong máu (thường ít gặp).
         *  Chuyển hoá protein: bệnh nhân ung thư bị giảm cân nặng,  thương giảm khối
     lượng phần thịt của cơ thể. Với bệnh nhân bị giảm  15,2kg trong 6  tháng sẽ bị giảm:
     7,4kg là nưốc; 6,2kg là mỡ và  l, 6 kg protein (7).



                                                                                       329
   332   333   334   335   336   337   338   339   340   341   342