Page 133 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 133

bao  gồm  trứng,  thịt,  sữa,  cá,  khoai tây và rau  quả  (57).  Khẩu phần có lượng Li cao
      có thế  gây ngộ  độc  nhẹ như rốỉ loạn tiêu hoá,  mỏi và rung cơ.  Nếu ngộ độc nặng có
      thể gây hôn mê, rung cơ, co giật và chết (59).

      15. Rubidium (Rb)

          Theo dõi dê nhận thấy khi thiếu Rb sẽ giảm lượng ăn vào hàng ngày, ức chế sự
      phát triển cơ thể và tăng sảy thai (61). Rb ít độc và chưa phát hiện thấy triệu chứng
      ngộ độc do Rb có trong thực phẩm và khẩu phần ăn. Nhu cầu hàng ngày cần từ 12-
      59  micromol  (l-5mg).  Thực  phẩm  giàu  Rb  bao  gồm:  cà  phê,  chè  đen,  rau  quả,  đặc
      biệt là măng tây (asparagus) và gia cầm (62).

      16. Thiếc (Sn)

          Theo  dõi  trên  chuột  ăn  khẩu  phần  thiếu  thiếc  nhận  thấy  chuột  bị  giảm  cân
      nặng  và  tăng  trưởng,  giảm  đáp  ứng  với  tiếng  động,  thay  đổi  thành  phần  khoáng
      trong  một  sô" bộ  phận cơ thể,  gây rụng lông  (63,64).  HỢp  chất thiếc vô cơ ít độc.  Sử
      dụng  thực  phẩm  đóng  hộp  bằng thiếc  không  đưỢc  tráng lốp  men  (vecni)  bảo  vệ  có
      thế  tăng  sự  nhiễm  dư  lượng thiếc  cao  trong khẩu  phần tà   tác  động  tới  sự  chuyển
      hoá  một  số nguyên  tố vi  luỢng  cần  thiết  khác  như  kẽm,  đồng  (65).  Nhu  cầu  thiếc
      cần hàng ngày từ 8-337 micromol (l-40mg).  Nguồn thực phẩm cung cấp nhiều thiếc
      là đồ hộp (65).

      17. Crom (Cr)

          Năm  1959 Schwarz K và  c s   trong thử nghiệm khảo sát trên động vật đã nhận
     thấy  crom  có  khả  năng tác  động tới  insulin  và  hồi  phục  sự  dung  nạp  bình  thường
     của  glucose  trên  chuột  (66).  Sau  đó  một  sô" tác  giả  khác  lại  tiếp  tục  theo  dõi  trên
     một  sô" đô"i  tượng  trẻ  em  trong phục  hồi  sùy  dinh  dưỡng và  nhận  thây  có  sự  dung
     nạp tô"t glucose khi cho uốhg bổ sung 250mcg (4,8 micromol) crom clorid.
         Đặc  biệt  crom  clorid  còn  chứng  tỏ  tác  động hiệu  quả  khi  bổ  sung vào  thức  ăn
     đường tĩnh mạch TPN  (68).  Crom có trọng lượng phân tử (MW  52g/mol), có hoá trị
     III  hoặc VI.  Trong thực  phẩm  crom  thường ở dạng hoá trị  III,  ít độc  qua  đường ăn
     uô"ng.  Crom  hoá  trị  VI  khó  nhiễm  vào  thực  phẩm  và  nước  sẽ  biến  đổi  thành  crom
     hoá  trị  III  do  tác  động của  môi  trường acid  trong  dạ  dày  (69).  Trong công nghiệp,
     crom hoá trị VI ở dạng chromate và dichromate là chất oxy hoá kích thích rất mạnh
     và có hại cho sức khoẻ do độc tính cao.

         Giới hạn bụi chromat và dichromat là 0,000Img/ml. Đã nhận thấy một sô" người
     bị ung thư phổi khi tiếp xúc với crom hoá trị VI.

         Crom có phổ biến trong thực phẩm  mặc dù chỉ với lượng rất nhỏ.  Trong các hạt
     ngũ cốc, lượng Cr cao hơn rau quả. Trong cơ thể, Cr được tích luỹ ở xương, tụy, gan,
     thận  và  bài  tiết  chủ  yếu  qua  phân  (98%)  (70).  Trong  thử  nghiệm  trên  cơ  thể  và
     phòng  thí  nghiệm  (invivo  và  vitro)  đều  nhận  thấy crom  có  khả  năng tác  dụng tới
     insulin,  đặc  biệt  với  đôi  tượng bị  rô"i  loạn  dung  nạp  glucose.  Khi  bổ sung crom  đã
     nhận  thấy  ngoài  hiệu  quả  tăng  tác  động  của  insulin  tới  sự  dung  nạp  của  glucose
     trong  cơ  thể,  còn  cải  thiện  đưỢc  sự  chuyển  hoá  của  lipid  trong  máu  như  giảm



                                                                                       125
   128   129   130   131   132   133   134   135   136   137   138