Page 137 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 137

Năm  1979 trạng thái thiếu selen trong khẩu phần ăn đã dẫn đến bệnh Keshan,
       một bệnh  lan  truyền  ở địa  phương,  "bệnh cơ tim"  có ảnh hưởng đến trẻ em và phụ
      nữ  trong  thòi  kỳ  mang  thai,  nuôi  con  nhỏ  ở  một  số địa  phương  của  Trung  Quốc.
      Trên cơ sở điều tra nghiên cứu khẩu phần ăn, các nhà khoa học Trung Quốc đã xác
      định  bệnh  Keshan  không  gặp  ở  những vùng  mà  lượng  selen  ăn  vào  đạt  dưới  mức
      trung bình  19 và  14mcg ngày cho  nam và nữ tuổi trưởng thành.  Lượng ăn vào này
      được coi như lượng selen bắt buộc tối thiểu/ngày (84,85).  Cũng ở Trung Quốíc (1983)
      đã  nhận thấy một sô" khu vực dân cư bị  ngộ độc selen (selenosis) do lượng ăn vào từ
      thực  phẩm  90-6690mcg/ngày  và  lượng  selen  trong  máu  13,3  micromol/L  hoặc  cao
      hơn.  Gia  súc bị ngộ độc do selen đã biểu hiện tăng trưởng chậm, xơ gan, lông thưa,
      mỏng guô"c biến dạng và gày còm.
          Năm  1980 u ỷ  ban  Dinh  dưỡng và Thực phẩm  - Viện  Hàn lâm Khoa học Mỹ đã
      khuyến  cáo  lượng  ăn  vào  cần  thiết  và  an  toàn  hàng  ngày  của  selen  là  50-200mcg
      đôi với người lớn và lượng tôi đa không đưỢc vượt quá 300-400mcg/ngày (86).

          Selen có  trong thực  phẩm  có  nguồn  gô"c thiên nhiên với sô" lượng thay đổi khác
      nhau  râ"t nhiều,  tuỳ thuộc lượng selen trong đất trồng đã  được bổ sung thêm  selen
      (tính  theo  mcg/g thực  phẩm  tươi:  ngũ cốc  dưối  0,1-0,8;  sản  phẩm  sữa  dưới  0,1-0,3;
      hoa quả rau 0,1; thịt 0,1-0,4; phủ tạng động vật và hải sản 0,4-1,5 hoặc cao hơn.
          Thực  hiện chương trình  phòng thiếu  vi  chất  dinh  dưõng,  Bùi Minh  Đức  và cs

      đã  kiểm  tra  đánh  giá  lượng  selen  trong  một  sô" loại  rau  muống,  rau  ngót  tuơi  và
      khô,  cải  sen và  rau  mồng tơi bằng phương pháp huỳnh quang AOAC  1990 tại Viện
      Dinh  dưỡng, Viện Nghiên cứu Thực phẩm  New Zealand (88)  đồng thời theo dõi xác
      định lượng selen trung bình trong khẩu phần ăn của người lớn.

          Kết quả nghiên cứu khảo sát bước đầu đã nhận thấy hàm lượng selen tính theo
      mcg%  khá cao trong:  cải  sen 5,6mcg/%,  rau  mồng tơi 3,9mcg%  và rau  ngót 6mcg%,
      rau  muông 0,4mcg% tương đương với một sô" loại rau thông dụng khác (theo tài liệu
      nước  ngoài)  như  cà  bát,  cà  tím,  cà  pháo  6,7mcg%;  khoai  lang  7,lmcg%;  cải  bắp
      2,3mcg% (87).

          Theo  dõi  xác  định  lượng  selen  trong  khẩu  phần  ăn  1994-1995  tại  vùng  đồng
      bằng sông Hồng,  Phan Thị  Kim  và  Lê  Bạch Mai  - Viện Dinh dưỡng tiến hành điều
      tra đã nhận thấy lượng selen ăn vào hàng ngày trung bình của người lớn đạt từ 27-
      32mcg/ngày  so  với điều tra  năm  1984 của  Pennington T tại Mỹ là  83-129mcg/ngày
      (87,89).

          Các  tác  giả  kiến  nghị  sự  cần  thiết  tiếp  tục  triển khai  thực hiện  việc  phân tích
      hàm  lượng  selen  và  các  nguyên  tô" vi  lượng  khác  trong  một  sô" thực  phẩm  thông
      dụng tại  một  số vùng núi,  trung du,  để cân  đối các  nguyên  tô" vi lượng trong khẩu
      phần ăn của nhân dân ta.





                                                                                        129
   132   133   134   135   136   137   138   139   140   141   142