Page 13 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 13

Ngoài  ra  có  một  sô" động  vật  có  nhu  cầu  đôi  vối  chất  dinh  dưõng  này  mà  vối
       động vật khác lại không có nhu cầu như:  acid amin arginin cần cho  mèo và chim,
       hoặc vitamin  c   cần  cho ngưòi  và  chuột  lang,  do  không  tự tổng hỢp  đưỢc  trong cơ
       thể. Với các nhóm động vật khác, cơ thể tự tổng hỢp đưỢc (4,  5).

       3.  Nhu cầu cần thiết có điểu kiện

           Synderman  (1984)  (6)  khi  khảo  sát  nhu  cầu  dinh  dưỡng  đã  nhận  thấy:  trong
       thời  gian  thai nghén  để  nuôi  trẻ  trong bào  thai,  người  mẹ cần cystin và  tyrosin  để
       giữ đưỢc huyết tương luôn ỏ mức ổn định,  vì cystin và tyrosin là hai acid  amin cần
       thiết cho trẻ  không bị  đẻ  non.  Và  cũng không chỉ  trẻ  sơ  sinh,  trong  một  số trường
       hỢp bệnh lý, rối loạn do di truyền, hoặc tâm thần cũng cần hai acid amin trên, do cơ
       thể không tổng hỢp thoả mãn nhu cầu của cơ thể.  Do đó các nhà dinh dưõng đã coi
       cystin và tyrosin là hai acid amin cần thiết có điều kiện vối trẻ trong bào thai (6).
           Mc  Cormick  (7)  (1993)  trong  khảo  sát  đã  nhận  thấy  trẻ  sơ  sinh  do  thiếu  các
       men  để  kéo  dài  và  khử  bão  hoà  (desaturation)  các  acid  béo  linoleic,  alpha,  a-
       linolenic là tiền thân của các eicosanoid và màng phospho lipid tế bào,  do đó cũng
       đưỢc xem là chất dinh dưỡng cần thiết có điều kiện.

           Hoppel  c.  (1993)  (8)  trong  khảo  sát  trên  trẻ  em  đã  nhận  thấy  có  nhu  cầu
       carnitin và taurin cho sự ổn định cân bằng azot và phát triển của tế bào tiểu  não
       và  võng  mạc  trẻ  em;  và  được  xem  là  chất  dinh  dưỡng  cần  thiết  có  điều  kiện
       (conditionally  essential  nutrient)  trong  khi  đó  đối  vối  người  lốn  không  thật  cần
       thiết (8,  9,  10).  Mc  Cormick còn nhận thấy trong khuyết tật về di truyền do cơ thể
       không  tổng  hỢp  đủ  carnitin  (7)  đã  gây  viêm  cơ  (myopathies)  và  có  thể  phục  hồi
       được  bằng bổ  sung  carnitin  vào  khẩu  phần.  Do  đó  năm  1986  (11)  Rudman  D  và
       Feller A  đã  để  xuất  3  chỉ  tiêu  để  xác  định  các  chất  dinh  dưỡng cần  thiết có  điều
       kiện khi:
           —  Giảm chất dinh dưỡng đó trong huyết tương dưới mức bình thường.

           —  Xuất hiện các dấu hiệu rối loạn chức năng chuyển hoá trong cơ thể.
           —  Sẽ khắc phục đưỢc trạng thái rối loạn các chức năng khi đưỢc bổ sung chất
               dinh dưỡng đó vào khẩu phần ăn.

           Ngoài ra  khuyết tậ t về gen  đã hạn chế sự biến  đổi chuyển hoá  vitamin  thành
       dạng  coenzym  và  dẫn  đến  tình  trạng  thiếu  vi  chất  trầm   trọng  do  rốì  loạn  trong
       hấp  thu sử dụng biotin,  Bi2,  folate,  niacin,  pyridoxin,  và thiam in  (Mudd SH.  Adv.
       N utr.  Re  1982  4:  1-34).  Để  khắc  phục  sự  thiếu  hụt  trên  cần  bổ  sung  lượng  các
       vitam in cao hơn nhu cầu khuyến cáo.  Trong  1  sô" bệnh di truyền như viêm  da đầu
       chi  (acrodermatitis)  bệnh  ruột  non  (entheropathica)  do  sự  rô"i  loạn  hấp  thu  kẽm,
       cần phải bổ sung lượng kẽm gấp 4 lần so vối nhu cầu.

           Với  một sô" đốì  tượng có khuyết tật về gen như không tổng hỢp  đủ carnitin  sẽ
       gây bệnh về cơ (myopathies) và có thể được khắc phục bằng bô xung carnitin.  Còn
       khuyết tật gen trong tổng hỢp tetrahydro biopterin đồng yếu tô" (coíactor) của men
       thuỷ phân  acid  amin  thơm  (hydroxylase)  đã  gây  phenylketo  niệu  và  làm  r ô 'i  loạn


                                                                                           13
   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18