Page 205 - Diện Mạo Và Triển Vọng Của Xã Hội Tri Thức
P. 205
như sô' lượng những sinh viên sau khi tốt nghiệp đi nhận
làm công tác nghiên cứu, lại giảm mạnh. Cuộc khủng hoảng
hiện tại trong giáo dục khoa học chắc chắn sẽ có những
hậu quả nghiêm trọng. Điểu này sẽ ngày càng khó đáp ứng
những yêu cầu không ngừng gia tăng của các xã hội đang
hướng tới đổi mới để trở thành xã hội tri thức.
Cuộc khủng hoảng trong giáo dục khoa học
Một số con số về châu Âu
Đức: Trong khoảng 1990-1995, con số sinh viên học ngành vật lý
giảm 2/3.
Scốtlen: số trường đại học có dạy ngành địa chất: Năm 1995: 5; năm
2002: 1.
Pháp: Số sinh viên bắt đầu học các ngành khoa học năm đầu tiên ở
trường đại học: 1995: 63 400; 1997: 51.200; 2000; 50.800.
Số sinh viên được tuyển vào đại học:
1995 1997 2000
Toán học 56.200 56.400 50.900
Vật lý học 68.200 51.700 36.700
Hóa học 13.800 12.300 10.400
Hà Lan: Trong khoảng 1989-1994, số sinh viên tại Đại học Tự do Amsterdam
đã giảm với mức: 39% trong ngành hóa học;
20% trong công nghệ thông tin và vật lý học.
Một số con số vê các nước phía Nam
Theo số liệu mà Viện Thống kê của UNESCO (UIS) thu thập được đối
với một số nước phía Nam, trong một số trường hỢp, việc gia tăng số
sinh viên tuyển vào các khóa học khoa học vẫn không che giấu được
một sự thật là sự gia tăng trong một số môn khoa học đôi khi đã được
trả giá bằng sự sụt giảm của các bộ môn khác.Ví dụ tại Ẻritơria, trong
khoảng 2000-2001, mặc dù số sinh viên được tuyển vào các ngành
khoa học về sự sống đã tàng 40%, nhưng con số sinh viên vào ngành
toán học và thống kê học đã giảm hdn 6%.Tưdng tự, tại Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào, trong cùng giai đoạn đó, số lượng sinh viên ngành
vật lý học tăng cao dường như lại bị trả giá bằng sự sụt giảm ở các
ngành khoa học về sự sống.
Nguồn: UNESCO, Tovvards Knowledge Societies, Tlđd, tr. 127.
205