Page 96 - Đánh Giá Cạnh Tranh Trong Một Số Ngành Dịch Vụ Của Việt Nam
P. 96

96              Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

            doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín
            dụng)  ra  đời,  sự  hỗ  trợ  tài  chính  của  các  ngân  hàng  đối  với  NĐT
            chứng khoán cũng bị hạn chế. Các CTCK có tiềm lực tài chính mạnh
            hay có liên kết với ngân hàng sẽ có lợi thế hơn nếu cạnh tranh bằng
            việc sử dụng đòn bẩy tài chính. Cũng tương tự như vậy, các CTCK có
            danh mục tự doanh cổ phiếu đa dạng sẽ giúp cho NĐT dễ dàng khi
            cho vay cổ phiếu để bán trước ngày T+4.

                  Bên cạnh các hỗ trợ về mặt tài chính, các CTCK còn cung cấp
            cho NĐT thông tin về TTCK hay các công ty niêm yết dưới dạng các
            bản tin, bài nghiên cứu, khuyến nghị đầu tư hay hội thảo. Rất nhiều
            CTCK đã thực hiện tốt hoạt động này nhờ có một đội ngũ nhân sự có
            khả năng phân tích chuyên sâu. Đây cũng là một cách thức hữu ích để
            thu hút NĐT đến với CTCK. Trong giai đoạn 2006 - 2008, đại lý nhận
            lệnh cũng là một phương thức mà các CTCK sử dụng để nâng cao khả
            năng cạnh tranh của mình. Hoạt động của các đại lý nhận lệnh sẽ giúp
            cho CTCK tiếp cận, mở rộng mạng lưới khách hàng trên khắp cả nước.

                  3.  Nhận  diện  các  hành  vi  phản  cạnh  tranh  trong  lĩnh  vực
            kinh doanh chứng khoán
                  Luật Cạnh tranh là luật chung điều chỉnh hoạt động cạnh tranh
            trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ của nền kinh tế bao gồm cả
            lĩnh vực chứng khoán. Vì vậy, để nhận diện các hành vi phản cạnh
            tranh trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán cần phải căn cứ vào các
            quy định của Luật Cạnh tranh. Cụ thể như sau:
                  3.1. Hành vi hạn chế cạnh tranh

                  3.1.1. Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
                  Như ở phần II đã trình bày, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là
            hành vi diễn ra giữa hai hay nhiều doanh nghiệp nhằm mục đích làm
            giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Các dấu hiệu của
            hành vi bao gồm việc thống nhất cùng hành động và hành động đó của
            nhóm  doanh nghiệp  gây tổn  hại  tới  cạnh tranh trên thị trường. Các
            hành vi được quy định cụ thể liên quan tới ấn định giá, phân chia thị
            trường, hạn chế hay kiểm soát khối lượng, số lượng sản xuất và mua
            bán, hạn chế phát triển kỹ thuật…
                  Đối chiếu với các hành vi cạnh tranh giữa các CTCK thì không
            có các hành vi cùng thực hiện, hay bắt tay hành động chung giữa một
   91   92   93   94   95   96   97   98   99   100   101