Page 86 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 86

Bên  ngoài  nước  Mỹ,  các  xanthine  giãn  phê  quản  “không




                                          theophylline”  khác  cũng  được  phép  lưu  hành,  nhưng  các




                                          xanthine này cũng có một sô" nhược điểm như nhau. Do vậy, các




                                          dẫn  xuất này  dường như không có vai trò  trong điều  trị  bệnh




                                          hen  ngày  nay.  Enprofylline  -  một  dẫn  xuất  mới  hơn,  đã  được




                                          đánh  giá cao.  Đây là  một thuốc giãn phế quản mạch gấp  5 lần




                                          theophylline  và  lại ít  gây kích  thích  hệ  thần kinh  trung  ương




                                          hơn.  Không giống theophylline và caffeine, nó không đốỉ kháng




                                          vối adenosine; yếu tô" này giải thích sự vắng mặt các cơn co giật




                                          ỏ các nghiên cứu trên động vật. Tuy nhiên, thuổc này hay gây ra




                                          tác  dụng phụ như buồn nôn và  đau*đầu,  và  thời gian bán  đào




                                          thải  nhanh  trong vòng  1  -  2  giò,  chính  các yếu  tố trên  đã làm




                                          hạn chế việc sử dụng trong lâm  sàng. Đã có một sô" nghiẻn cứu




                                          lâm  sàng  được  thực  hiện  nhằm  cô" gắng  phác  hoạ  vai  trò  của



                                          enprofylline trong việc gây ra giãn phế quản cấp, trong việc điều




                                          trị hen mãn tính, ảnh hưỏng lên bệnh hen do gắng sức và lên sự




                                          ^ăng  phản  ứng  đường  hô  hấp.  Theophylline  và  enprofylline




                                          dường như có hiệu  quả và tần sô" tác động phụ có hại tương tự




                                          nhau trong việc điều trị bệnh hen.







                                                         Người ta  đã phát triển một sô' thuốc  được gọi là “muối của




                                          theophylline” nhằm làm tăng tính hoà tan trong nước (8mg/ml ồ



                                          t° = 25°C) và do vậy cải thiện sự hấp thụ. Mặc dù các muối của




                                          theophylline có thể được tạo ra với một chất kiềm ỏ pH cao như




                                          là  hệ  quả  của  sự  chuyển  đổi  tautome  ỏ  một  ion  hydro  (H+),




                                          nhưng theophylline chỉ bị ion hóa nhẹ ở pH sinh lý (pKa = 8,8).




                                          Do vậy, các chất gọi là muốỉ của theophylline này thực sự là hỗn




                                          hợp của theophylline và kiềm và hỗn hợp này không ảnh hưỏng




                                          đến hoạt tính  dược lý của theophylline.  Do sự hấp thụ của các




                                          methylxanthine  liên  quan  nhiều  hơn  đến  tính  chất  ái  lipid



                                           (lipophilic) so với tính hoà tan trong nước, do vậy không có cơ sỏ




                                          hợp  lý  cho  việc  sử  dụng  các  dạng  thuổc  cũ  chứa




                                          ethylenediamine, calcium salicylate, natrium glycinate, choline




                                          hoặc  các  bazơ khác.  Thậm  chí vói  aminophylline  tiêm vẫn  còn




                                           được sử dụng thường xuyên, ethylenediamine chỉ được sử dụng













                                           88
   81   82   83   84   85   86   87   88   89   90   91