Page 29 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 29
chứng tỏ tính hiệu quả của việc tiêm epinephrine vói các liều
lượng 0,25 mg hoặc 0,01 mg/kg ở trẻ em nhỏ vổi các quãng cách
thòi gian 15-30 phút trong việc điều trị bệnh nhân có co thắt
phê quản câ'p tính. Tuy nhiên, do việc sử dụng khí dung để điều
trị hen càng ngày càng tăng lên đã làm giảm vai trò của
epinephrine trong điều trị bệnh hen. Một thuốc giãn phế quản
thay thế cho epinephrine sử dụng bằng đường tiêm ồ Mỹ là
terbutaline. Một sô" nghiên cứu đã được thực hiện để so sánh hai
thuôc này. Khi được sử dụng cùng một liều lượng dưới da,
terbutaline tạo ra mức độ giãn phế quản bằng hoặc cao hơn và
thời gian tác động cũng bằng hoặc dài hơn, nhưng các tác động
phụ như tăng nhịp tim cũng thường nhiều hơn. Nếu liều lượng
của một trong hai loại thuốc này tăng hơn so với loại kia thì tác
động gây giãn mạch cũng sẽ dài hơn nhưng các tác động phụ
cũng lớn hơn. Trong khi có vẻ (trên cơ sỏ lý thuyết) là
terbutaline là một thuốc giãn phế quản tiêm chọn lọc, thì các dữ
liệu lâm sàng lại chứng tỏ rằng epinephrine là một thuốc thay
thế hiệu quả.
d. Isoproterenol
Isoproterenol, mặc dù bị mất hoạt tính khi sử dụng bằng
đường uống, đã từng là thuổc được ưa thích sử dụng bằng khí
dung trong nhiều thập niên. Vì vậy nó là một thuốc giãn phế
quản khí dung tiêu chuẩn để các thuốc p-adrenergic mới hơn
đem so sánh. Nhiều thực nghiệm đã khẳng định các ấn tượng
tốt trưóc đây về loại thuốc này : 1 - isoprotenol khí dung là một
thuốc giãn phế quản tiềm năng; 2 - sự giãn phế quản đạt tới cực
điểm trong vòng 5 phút, nhưng tác dụng đỉnh điểm không kéo
dài; 3 — tác dụng giãn phế quản giảm xuống nhanh chóng và
thường hết sau 2 giờ; và 4 — nếu sử dụng liều đơn thường không
gây kích thích tim, nhưng nếu tăng liều có thể gây kích thích
thụ thể Pj của tim. Do thời gian tác dụng đỉnh điểm của thuốc
ngắn nên thuốc này không thích hợp cho việc điều trị giãn phế
quản duy trì hoặc để phòng ngừa co thắt phế quản trước khi
31