Page 27 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 27
Hai thuốc mới đưa vào sử dụng gần đây có thời gian gây
giãn phế quản dài đáng kể, có thể hơn 12 giò. Cơ chê kéo dài tác
động giãn phế quản này vẫn chưa rõ. Các thuốc này là
salmeterol hydroxynaphthoate và formoterol fumarate, rất
giông với các thuốc đồng vận (32 noncatecholamine (không phải
catecholamine) trong thành phần phenylethanolamine của
chúng, tuy nhiên cả hai thuốc này có một sô chuỗi bên ưa lipid
(lipidophilic side chains) (hình - 5). Người ta đã cho rằng các
chuỗi bên này móc phân tử vào các vị trí trên màng tế bào cạnh
vị trí của thụ thể p vì tác động của hai thuốc này có thể bị ức
chế in vitro bằng cách cho một thuốc phong bế p-adrenergic,
nhưng thụ thể lại bị kích thích nếu loại bỏ chất ức chế (3.
Những thay đổi được thực hiện sau khi xuất hiện
isoproterenol đã dẫn đến tạo ra 5 nhóm thuốc giãn phế quản
đồng vận giao cảm. Đầu tiên là đồng vận catecholamine không
chọn lọc, isoproterenol; thứ hai là các thuôc có tính chọn lọc p2
tăng lên nhưng vẫn là các catecholamine và do vậy tác động
ngắn và không hữu ích khi uổng (như isoetharine), mặt khác
trong nhóm này còn có colterol - dạng hoạt tính của bitolterol.
Bitolterol là một dạng tiền thuốc (prodrug) có tác dụng giãn
phế quản kéo dài, đặc biệt là khi khí dung. Nhóm thứ ba là
nhóm tương đốĩ không chọn lọc (tác động không chọn lọc)
nhưng cũng là nhóm không catecholamine và như vậy đề
kháng vối tác động của COMT. Trong nhóm này có
metaproterenol và fenoterol có tác dụng kéo dài hơn và có thể
sử dụng bằng đưòng uổng nhưng có tính chọn lọc Ị32 cao hơn
không nhiều so với isoproterenol. Nhóm thứ 4 là các thuốc có
tác dụng dài hơn, giữ được hoạt tính khi sử dụng bằng đường
uổng và có tính chọn lọc với thụ thể p2 (terbutaline, albuterol,
pirbuterol và procaterol). Cuối cùng là nhóm thứ 5 là nhóm
thuốc giãn phế quản mới nhất, nhóm này có formoterol và
salmeterol. Các thuốc này có tính chọn lọc p2, và ít nhất khi
khí dung gây ra giãn phế quản kéo dài có thể hơn 12 giờ.
29