Page 25 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 25

Epinephrine tiêm  đã  được  đưa vào sử dụng để điều trị hen




                                                              phế quản năm  1903 bởi Bullowa và Kaplan. Năm  1924 Chen và




                                                              Schmidt đã  quan sát thấy rằng các tác động của ephedrine - là





                                                              hoạt chất của một loại thuốíc Trung Quốc có tên là Ma huang đã




                                                              được sử dụng nhiều thế kỷ để điều trị các bệnh  phổi,  giông với




                                                              các tác  động của  thuốc  epinephrine.  Điều  này  dẫn  đên việc sử




                                                              dụng  ephedrine  uống  như  là  một  thuốc  giãn  phê  quản




                                                              adrenergic  có  hiệu  quả  đầu  tiên.  Nàm  1941,  isoproterenol  đã




                                                              được đưa vào sử dụng. Isoproterenol không hiệu quả theo đường




                                                              uống bỏi vì giống như tất cả các thuốc catecholamine, nó nhanh





                                                              chóng mất hoạt tính khi kết hợp vói thành ruột cũng như bâi tác




                                                              động  của  men  catechol-O-methyltransferase  (COMT).  Tuy




                                                              nhiên, isoproterenol có các tính chất gây kích thích của riêng P-




                                                              adrenergic, không có các tác động phụ a- adrenergic như khi sử




                                                              dụng  epinephrine.  Sự  xuất  hiện  metaproterenol  năra  1961  đã




                                                              tạo  ra  một bước  tiến  đáng kể vì nó bển vững với tác  động làm




                                                              mất kích hoạt của  COMT và do vậy có thể sử dụng uống. Thòi




                                                              gian  tác  động  của  metaproterenol  lớn  hơn  (dài  hdn)  so  vối




                                                              isoproterenol.  Sau khi Lands đã phân biệt được hai loại thụ thể





                                                              là p là  Pi và  p2, thì đã có nhiều nỗ lực nhằm phát triển các loại




                                                              thuốc có tác dụng chọn lọc lên thụ thể p2 hoặc có tác động giãn




                                                              phế quản.







                                                                              Có  hai  cách  thức  biến  đổi  chính  cấu  trúc  căn  bản  của  các




                                                              catecholamine.  Thứ  nhất  là  biến  đổi  trong  các  nhóm  3,4-




                                                              hydroxyl  trên  vòng benzen,  đây là  các  nhóm  cần  thiết  cho  tác




                                                              động  của  COMT.  Sự  biến  đổi  này  có  thể  bằng  cách  đổi  vị  trí




                                                              (như  trong  metaproterenol,  terbutaline  và  fenoterol,  trong các




                                                              phân tử này các nhóm hydroxyl được chuyển đến các vị trí 3, 5),




                                                              hoặc  bằng  cách  thay  thế  các  nhóm  hydroxyl  bằng  các  nhóm




                                                              khác  (như  trong  trường  hợp  của  albuterol,  pirbuterol  và





                                                              salmeterol,  trong  đó  nhóm  3-hydroxyl  bị  thay  thế  bằng  một




                                                              nhóm hydroxy methyl, và trong trường hợp của formoterol, thay




                                                              nhóm  3-hydroxyl  bằng  một  nhóm  formylamino).  Sự  kháng




                                                               COMT  có  được  đổi  với  bitolterol  bằng  các  ester  hóa  các  nhóm














                                                                                                                                                                                                                                                                                                     27
   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29   30