Page 263 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 263
khí dung làm giảm sổ* lượng dưỡng bào đưòng hô hâp ở những
đối tượng hen. Trong trường hợp của bạch cầu ưa bazơ; những
đốì tượng dị ứng có tăng số lượng bạch cầu ưa bazơ trong các
chất xuất tiết mũi và sự điều trị steroid làm giảm rõ rệt sô"
lượng bạch cầu ưa bazơ ở những đối tượng hen đang ổn định và
những đổì tượng bị hen kích thích bằng kháng nguyên. Các
bạch cầu ưa bazơ chỉ hiếm khi tập trung một cách có chọn lọc ỏ
một vị trí tại chỗ trong mô. Nói chung trong các phản ứng chậm
thực nghiệm, các bạch cầu ưa bazơ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ
trong tổng sô" các bạch cầu thâm nhiễm. Trong kích thích mũi,
điều tri steroid tại chỗ ức chế sự huy động các bạch cầu ưa bazơ
đến trong phản ứng thì chậm. Đây không phải là một tác động có
chọn lọc của các steroid, do sự huy động các bạch cầu ưa acid và
trung tính đều cũng bị ức chế bởi sự điều trị tại chỗ bằng steroid.
2. Các mạch máu
Tăng tuần hoàn máu và tăng tính thấm của các mạch máu
là hai thành phần quan trọng của phản ứng viêm, vì điều này
giúp cho vận chuyển các tế viêm và các protein của huyết tương
đến vị trí viêm tại chỗ trong mô. Nhiều chất trung gian như
histamine và bradykinin có thể kích thích một cách trực tiếp sự
giãn mạch và tăng tính thấm của mạch. Các prostaglandin như
PGE2 hoặc prostacyclin cộng hưỏng vói các chất trung gian trên
trong việc làm tăng đưòng kính mạch máu. Nhóm thứ hai của
các chất trung gian như các tác nhân hóa ứng động (LTB4, C5a,
peptide f-Met) có thể làm tăng tính thấm của mạch thông qua
một cơ chế đòi hỏi sự có mặt của các bạch cầu trung tính và các
chất chuyển hóa cyclooxygenase của arachidonic acid. Trong
trường hợp phù nề gây ra bởi các tác nhân hóa ứng động, sự kết
dính bạch cầu vào nội mô mạch máu có thể là một bước quan
trọng trong phản ứng phù nề.
Người ta đã chứng minh rằng các cytokine kích hoạt tế bào
nội mô mạch máu như ILrl và TNF, IFNy làm tăng tính thấm
của mạch.
265