Page 103 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 103
độc theophylline nặng thường xảy ra ỏ những bệnh nhân có suy
chức năng gan và suy tim. ở những bệnh nhân này, sự loại thải
thuốc bị suy yếu, và các nồng độ thuổc trong huyết thanh cứ
tích dần lên đến nồng độ rất cao. Sử dụng truyền tĩnh mạch đều
đặn aminophylline ở nồng độ 0,9mg/kg/giò (tương đương vối 0,7
mg/kg/ h theophylline khô) là liều thường liên quan đến những
trường hợp ngộ độc được công bô' trong những năm 70 và đầu
những nảm 80. Gần đây hơn, một báo cáo từ một bệnh viện lớn
trong thành phô" đã xác nhận việc phản ứng đốỉ vói những
trường hợp có nồng độ thuốc trong huyết thanh cao quá mức bị
chậm chễ hơn 10 h là nguyên nhân haý gặp nhất gây ra nhiễm
độc theophylline. Các nguyên nhân nhiễm độc hay gặp khác bao
gồm sử dụng những liều cao không thích hợp ỏ những bệnh
nhân có chứng suy tim, không nhận thấy những dấu hiệu sớm
của sự nhiễm độc, không nhận thấy sự nhiễm độc ỏ liều trước đó
mà lại cho điều trị bổ sung, điều trị thuốc chồng chéo vừa đường
uống vừa đường tinh mạch, và cho bệnh nhân xuất viện mà bác
sỷ không nhận thấy các dấu hiệu nhiễm độc đang tồn tại, hoặc
thay đổi liều.
Liều thông thường đã từng được khuyên dùng là 0,9 mg/kg/h
aminophylline đối với người lón là dựa trên một nghiên cứu
dược động học ỏ 9 người lớn khỏe mạnh đang ỏ trong thời kỳ
khỏi trạng thái status asthmaticus. Mặc dù phương pháp
nghiên cứu là thích hợp để xác định liều lượng của thuốc, nhưng
sô" lượng ngưòi trong nghiên cứu quá ít và không đại diện cho
những bệnh nhân phải dùng thuốc đưòng tĩnh mạch. Tốc độ đào
thải trung bình của theophylline trong số 9 bệnh nhân của
nghiên cứu này dài gấp đôi so với tốc độ trung bình mà sau đó
ngưòi ta đã phát hiện được trong một nghiên cứu khác có sô'
lượng đối tượng nghiên cứu lớn hơn. Hệ quả là, liều lượng 0,9
mg/ kg/ h khi được sử dụng cho những bệnh nhân ốm nặng đang
điều trị nội trú, dẫn đến nồng độ thuốc trung bình trong huyết
thanh là 20 fig/ml (lớn hơn dự đoán 10 ^tg/ml) và thường dẫn đến
nhiễm độc
105