Page 208 - Các Đại Công Thần Trong Lich Sử Việt Nam
P. 208

. Các dại cáng thần trong lịch sử Việt Nam 209

            Con trai Nguyễn Tri Phưong là Phò mã Nguyễn Lâm bị trúng
        đạn  chết  tại  trận"",  Nguyễn  Tri  Phưong  cũng  bị  trọng  thưong.
        Ông đuục lính Pháp cứu chừa, nhưng ông khảng khái từ chối và
        nói rằng:''Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bàng thung
        dung chết về việc nghĩa"^'^\ Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng
        và mất vào ngày 20 tháng  12 năm 1873 (1  tháng 11  Âm lịch), thọ
        73 tuổi. Thi hài ông và Nguyễn Lâm được đưa về an táng tại quê
        nhà.  Đích  thân  vua Tự Đức"^’ tự soạn  bài  văn  tế cho  ba vị công
        thần (Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm, Nguyễn Tri Phưong) và cho lập
        đền thờ Nguyễn Tri Phưong tại quê nhà.

            Đánh giá, nhận xét
            Tấm  gưong  quên  mình  vì  nước  của  ông  được  nhân  dân
         khâm  phục,  kính  trọng,  ông  được  thờ  trong  đền  Trung  Liệt
         (cùng với Hoàng Diệu) trên gò Đống Đa với câu đối:
             Thử thành quách,  thử giang son,  bách chiến phong trần dư
        xích địa
             Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên
             (Kia thành quách, kla non sông, trăm trận phong trần còn
         thước đất
             Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh.)

                                                    T h e o   Wikipedia

           Phò  mả  Nguyễn  Lảm  (1844-1873)  là  con  trai  thứ  hai  của  Nguyễn  Tri
           Phuong,  quê tại Thừa Thiên,  ham  học,  siêng năng, tính tinh khiêm cung,
           đưọc vua Tự Đức gả em gái là Đồng Xuân công chúa và phong cho chức Phò
           mã Đô úy.  ông đang ra Hà Nội thăm cha thì quân Pháp đánh thành, ông
           chỉ  huy  giữ cửa  Đông Nam,  đúng hướng quân  Pháp  tấn  công vào  thành.
           Sau khi qua đời, ông được triều đình truy tặng Binh bộ Tả thị lang, thờ vào
           đền Trung Nghĩa.
           Theo báo điện tử Bình Dương.
           Theo Nguyễn  Q. Thắng và'Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sứ Việt
           Nam, NXB KHXH, Hà Nội, tr.664.
   203   204   205   206   207   208   209   210   211   212   213