Page 268 - Bệnh Thường Mắc Thuốc Cần Dùng
P. 268
XX. TIM MẠCH
1. ĐAU TH Ắ T NGựC
Còn gọi là đau thắt tim, một hội chứng lâm sàng do thiếu máu cục
bộ cơ tim (xơ vữa động mạch), đặc trưng là những cơn khó chịu cảm
giác thắt chặt sau xương ức hay vùng iníớc tim đè nặng, xuyên ra sau
lưng, lan lên cổ, ra cánh tay, đặc biệt tăng nặng bởi sự gắng sức,
stress, lạnh, cơn tăng HA, cơn nhịp nhanh và được giảm đi bằng nghỉ
ngơi và ngậm nitroglycerin dưới lưỡi.
Triêu chứhg: Có 5 dạng: Đau thắt ngực ổn định, biến thái, hội chứng
X, không ổn định và tiền nhồi máu cơ tim. Đau nhức không gây phiền
phức nhiều hoặc nhanh chóng trở thành cảm giác đè nặng nghiêm
trọng, ghê gớm trước tim, lan ra vai trái, xuống cánh tay có khi đến tận
ngón, có thể đau qua lưng, vào họng, hàm, răng, đôi khi xuống tay
phải hoặc trên bụng (không phải đau ở mỏm tim). Ráng sức và lạnh rất
dễ làm tăng cơn đau. Nếu đau gia tăng, đau dài hơn, lúc đang ngồi hay
tỉnh giấc xem là nghiêm trọng gọi là đau thắt ngực bất định, thiểu năng
cấp tính động mạch vành, đau thắt ngực trước cơn nhồi máu hoặc là
hội chứng trung gian nhưng ít bị đột tử.
Điều tri: Nằm nghỉ tuyệt đối. Điện tâm đồ - Siêu âm - Thăm dò phóng
xạ.
Ba nhóm thuốc đặc hiệu là các nitrat, chẹn bêta, ức chế calci.
Riêng đau thắt ngực biến thái Prinzmetal thi chống chỉ định với
chẹn beta.
Thuốc ức chế calci: nifedipin, diltiazem, flunarazin, nimodipin,
nicardipin...
Nitroglycerin 0,3-0,6 mg đặt dưới lưỡi. Giảm nhẹ trong vòng 5
phút, lặp lại 3 lần, cách 4-5 phút nếu cẩn (luôn mang theo bên mình).
264