Page 20 - Bệnh Thường Mắc Thuốc Cần Dùng
P. 20
II. BỆNH XƯƠNG Cơ MÔ - KHỚP
1. BỆNH G ÚT (Goutte, Thống phong)
Viêm cấp tính tái phát các khớp ngoại vi, sinh ra do sự lắng đọng
tinh thể monosodium urat (MSU) từ các dịch cơ thể tăng acid uric-huyết
quá bão hoà ở trong và xung quanh khớp, các sợi gân. Có thể bảm
sinh (Hội chứng Lesch-Nyhan) hoặc nguyên phát (tính chất gia đình)
hoặc thứ phát (thoải giáng purin hoặc giảm thải acid uric qua thận). Đa
số là nguyên phát. Có thể trở thành mạn hoặc biến dạng.
Triẻu chứng: Không có báo trước. Chấn thương nhỏ, ăn uống cẩu thả,
rượu, phẫu thuật, mệt nhọc, stress, nhiễm khuẩn hay khớp cắn mạnh.
Đột ngột, đau một hay nhiều khớp về đêm, nặng dần không chịu nổi.
Khám giống như nhiễm khuẩn cấp: sưng, nóng, đỏ, ấn rất đau. Da
ngoài căng, nóng, sáng bóng, đỏ hay tía. Thường hay bị ở các ngón
tay, ngón chân cái, mu chân, cổ chân, đầu gối, cổ và khuỷu tay (ít gặp).
Có thể bị sốt, tim nhanh, ớn lạnh, khó ở, tăng bạch cầu. Bệnh kéo dài
vài ngày, về sau vài tuần. Có thế trở thành mạn, gây biến dạng khớp
vĩnh viễn do bị ăn mòn. Urat, gây các u cục (hạt tôphi) ở vành tai,
quanh khớp, dưới da, sưng trên bản tay, bàn chân, có thể vỡ, phóng
thích tinh thể urat giống như bột phấn.
Có trường hợp, triệu chứng hết sức âm thầm, vì vậy phải xét
nghiệm tìm các tinh thể MSU cho tất cả những người viêm khớp không
rõ nguyên nhân.
Điều tri: Sớm thì tốt. Xét nghiệm, X quang, siêu âm.
Trị bệnh theo 3 giai đoạn : cấp, gian phát xảy ra sau cơn cấp 2-3
tháng và điều trị tăng acid uric mạn lâu dài.
1. Gút cấp: chủ yếu dùng indomethacin 50mg X 4 lần/ngày, sau giảm
dần liều xuống và dùng khoảng gần 1 tháng.
14