Page 104 - Bệnh Thường Mắc Thuốc Cần Dùng
P. 104
phế quản tắc nghẽn mạn, tắc khí đạo cấp... đưa cấp cứu bệnh viện.
Chống chỉ định các thuốc opiat (codein, morphin hoặc tương tự).
6. TẮC KHÍ ĐẠO MẠN
Có những bất thường lâm sàng đáng kể. Là một tăng cản trở đối
với luồng hơi thở ra gắng sức.
Triêu chứng: Khó thở khi gắng sức, ho, thở khò khè, nhiễm khuẩn hô
hấp tái phát, yếu đuối, giảm cân, không có hoạt động tình dục (có một
số người không có ho và khó thở trước khi xuất hiện phù nê xanh tím).
Ho khạc buổi sáng hoặc cơn ho kiệt sức. Có ít nhiều đờm, có mủ. Bệnh
giống như hen khi có nhiễm khuẩn cấp hoặc chỉ khò khè nghe rõ khi
nằm nghiêng. Đe tránh lẫn: người bệnh hít vào thật sâu rồi thở dốc ra
thật nhanh và sạch (thở ra dưới 4 giây). Những đặc thù chí thấy ờ giai
đoạn cuối của bệnh phổi tắc mạn (COPD): căng phình phổi, hơi thở
kéo dài, cơ hoành bị nén ép, thở chụm môi, người khom khom, hai
“khuỷu tay chai cứng” vì nhiều lẩn ở “tư thế ba chân" . Thở ngày càng
suy giảm, tim nhanh, tiếng tim xa, giảm chuyển động cơ hoành không
phải lúc nào cũng có. Ngực bệnh nhân tĩnh lặng. Thời kỳ cuối người
xanh tím do giảm oxy huyết.
Điều tri: X quang ngực phổi. Chữa trị giảm triệu chứng như co thắt, suy
kiệt, nhiễm khuẩn, tăng tiết phế quản, giảm oxy.
Thuốc: Kháng sinh Co-Trimoxazol hoặc tetracyclin hoặc
ampicilin. Thuốc trị co thắt: Ipatropium BrH có công hiệu. Theophylin
dùng phải đảm báo lượng trong máu. Corticoid không có lợi ích gì trong
tràn khí nhưng phái thử nghiêm để dứt khoát rằng tắc khí đạo không
phái do viêm phế quản và hen mạn gây ra. Bổ sung oxy ngày đêm
(theo dõi đáp ứng áp lực khi trong máu) mà không kiếm chứng xem có
bị giảm oxy huyêt nặng hay không là một sai lầm. Ngừa suy tim là chữa
giảm oxy huyết. Lợi tiếu là cẩn thiết, dùng thuốc chống trầm cám nhưng
tránh dùng thuốc an thần, ngủ.
Dùng thuốc giãn phế quản hít hoặc xịt. Không dùng thuốc long
100