Page 228 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 228
các thần tích về tổ tiên trước khi học Kinh Thi;
tham dự vào sinh hoạt hội làng tế lễ, trước khi biết
đến Kinh Lễ; đã hiểu các quy tắc ứng xử, đối xử
với người trên kẻ dưới trước khi học Kinh Xuân
Thu. Họ học sách Nho chỉ để đi thi làm quan nếu
đỗ, và dù làm quan họ vẫn nhớ rằng "Quan nhất
thời, dân vạn đại", do đó không đi ngược lại các thể
chế của làng. Rồi khi về hưu hay gặp sóng gió trong
cuộc đời quan trường, họ trở về làng để tìm nơi an
ủi. Các nhà Nho Việt Nam không làm thành một
đẳng cấp riêng như ở Trung Quốc. Còn nhừng nhà
Nho không thành đạt thì thực tế cuộc sống và tư
tưởng của họ không khác gì người dân công xã.
Môi làng như vậy làm thành một thể hoán chỉnh
về văn hóa với thành hoàng riêng, đình riêng, khoán
ước riêng, ruộng công riêng, thậm chí thổ ngữ riêng.
Nho giáo chỉ tô điểm cho cái vẻ độc đáo này bằng
câu đối, thơ, phú, văn chương, chứ không chống lại
trong khi nội dung của văn hóa dân gian lại có
những điểm đối lập với những nguyên lý của Hán
Nho như lý thuyết tam tòng đối với phụ nữ. Kết
quả của sự khúc xạ này là các thể loại nghiêm trang
của văn học Hán đều bị bóp méo. Văn tế sống, Kinh
nghĩa, phú, nói đến nhu cầu giới tính, thơ Đưòng
của Hồ Xuân Hương.
12. Sự khúc xạ thứ ba của Nho giáo ở Việt Nam
lá xuất phát tử cơ tầng văn hóa ĐNA. Các cơ tầng
náy bị xáo trộn không ít trong quá trình lịch sử,
nhưng không phải vì thế mà nó chịu m ất đi. Sự
230