Page 226 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 226
dân Việt Nam, chủ yêu là người dân công xã, không
quan hệ trực tiếp với bộ máy quan lại như ở Trung
Quốc, mà thông qua một môi giới trung gian, gồm
có lý trưởng vả bộ máy hào dịch. Bộ máy này nộp
số thuế và giao số lính quan lại phân bổ cho làng.
Còn mọi việc trong lảng về cúng tế, nghi lễ, hội hè,
cho đến học hành, canh phòng, sản xuất... đều do
làng tự quản.
Nho giáo mà Việt Nam tiếp thu của Trung Quốc,
không phải là Nho giáo thời Khổng tử, mà là Nho
giáo của thời quân chủ chuyên chế Đường, Tống,
Minh. Trong một xã hội của chế độ quân chủ chuyên
chế kiểu Trung Hoa, người dân không có diện mạo
trước bộ máy quan liêu triều đình. Bộ máy này trực
tiếp bắt lính, bắt phu, vơ vét của cải, và khi có sự
chống đối thì làm cỏ cả một vủng rộng lớn, không
phân biệt. Cũng gọi là dân cả nhưng ngữ nghĩa chữ
"dân" ở hai nền văn hóa cũng khác nhau như ngữ
nghĩa chư "hiếu”. Người dân Việt Nam có diện mạo
riêng. Đó là người dân của công xã. Anh ta được
hưởng ruộng công, được làng che chở khi khó khăn
nhờ có nghĩa thương, được trợ cấp trong học hành.
Không một ông vua nào có thể tự do làm cỏ một
làng ngay dù cho chuyện nông dân khỏi nghĩa xảy
ra thường xuyên. Gặp trường hợp này chỉ có thể
giết một vài người cầm đầu. Nếu làm cỏ một làng
lập tức gặp phải sự chống đối của cơ cấu làng xã
vá triều đình nào cũng sụp đổ. Cũng vậy, Việt Nam
không có những kiến trúc đồ sộ như ở nhiều nước
ĐNA, không nói ở Trung Quốc, Tự Đức vừa mới xây
228