Page 64 - AllbertEstens
P. 64
quy mô vĩ mô. Đây là lý do chính đã lôi cuốn sự quan tâm hiện
nay của các nhà vật lý đối với BEC. Lúc đầu còn tranh cãi
nhưng hiện nay thì người ta đã thừa nhận rằng các tính chất
đặc biệt của các hiện tượng siêu dẫn và siêu lưu ở heli-3 cũng
như heli-4 là có liên quan vối BEC, mặc dầu các hệ này rất khác
chất khí lý tưởng mà Einstein đã xét.
Những nghiên cứu về BEC đã được tiến hành rất mạnh
mẽ từ đầu những năm 1990 và người ta đã thành công tạo ra
BEC vào năm 1995. Lĩnh vực này đang tiếp tục phát triển với
hứa hẹn vể những đột phá công nghệ lớn, thí dụ như về việc tạo
ra những chất siêu dẫn nhiệt độ cao.
IV. "THƯỢNG ĐẾ KHÔNG CHƠI xúc XẮC"
Sau khám phá của Einstein về lượng tử ánh sáng, cái mốc
lổn thứ ba trên con đường phát triển lý thuyết lượng tử là công
trình của Niels Bohr (1913) về các quỹ đạo lượng tử. Tuy nhiên,
cho đến đây, mặc dầu đã giải quyết được một sô" vấn đề bế tắc
của lý thuyết cổ điển, người ta vẫn chưa đi đến một lý thuyết
nhất quán. Nhu cầu về một "cơ học mới" cho thế giói vi mô đã
được đặt ra một cách cấp bách. Khám phá về sóng vật chất của
Louis de Broglie (1923, 1924) và nguyên lý tương ứng được Bohr
phát biểu (1918-20, 1923) đã mỏ ra hai con đường dẫn đến cơ
học mới này: cơ học ma trận của Werner Heisenberg (1925) và
cơ học sóng của Erwin Schrödinger (1926), hai lý thuyết này
sau đó (1926) đã được chứng minh là tương đương với nhau. Đó
là cơ học lượng tử * bộ phận hoàn chỉnh đầu tiên của lý thuyết
lượng tử. Nó cho phép suy ra một cách hệ thống và chính xác
các kết quả thực nghiệm đã biết cho đến lúc bấy giờ và ngay sau
đó nó lại được áp dụng rất có kết quả cho một sô" lĩnh vực khác:
hóa học lý thuyết, vật lý chất rắn,...
62