Page 61 - AllbertEstens
P. 61
cứu trước đây về chuyển động Brown và sử dụng công thức bức
xạ của Planck. Kết quả này đã đưa ông đến kết luận về sự cần
thiêt của một lý thuyết đầy đủ về ánh sáng tổng hợp được lý
thuyết sóng mà riêng nó chỉ xét được các hiện tượng giao thoa
với lý thuyết hạt chi phối các tương tác của ánh sáng và vật
chất. Như vậy là lần đầu tiên ông đã đưa ra khái niệm mà ngày
nay chúng ta gọi là "tính nhị nguyên" hay "lưỡng tínhM sóng
- hạt.
Mặc dầu có sự hoài nghi của Planck, ông cho rằng có thể
dung hòa được cấu trúc hạt của ánh sáng với sự tồn tại của các
hiện tượng giao thoa. Theo ông, bức xạ không thể nào bao gồm
các lượng tử mà không có sự tương tác giữa chúng, vì nếu
không, sẽ không hiểu được hiện tượng giao thoa. Ông viết: "Tôi
hình dung lượng tử năng lượng như là một kỳ dị trong một
trường vectứ' (dẫn theo [13]).
Về công trình trên đây của Einstein, trong bài viết kỷ
niệm 100 năm ngày sinh Einstein, Kastler đã đưa ra hai nhận
xét [13]. Thứ nhất, ý tưởng của Einstein rõ ràng đã gợi ý cho
Louis de Broglie khi khám phá ra sóng vật chất năm 1923 đã
hình dung hạt vật chất như là một kỳ dị trong sóng này (xem
các Phụ lục A2 và A5). Thứ hai, việc gán hiện tượng giao thoa
cho tương tác giữa các lượng tử ánh sáng như đã được chứng
minh về sau là không đúng. Ngưòi ta đã thu được các vân giao
thoa khi cho các hạt (photon hay electron) đi qua thiết bị giao
thoa từng hạt một. Giao thoa rõ ràng là một tính chất sóng
không phụ thuộc vào mật độ hạt.
Trong những năm sau đó, 1910-1916, Einstein đã tập
trung sức lực vào việc xây dựng lý thuyết tương đối rộng (Mục II
ở trên). Nhưng rồi ông lại quan tâm đến vấn đề bức xạ vào thời
gian 1916-1917 và đã đi đến công trình về sự phát xạ cảm ứng
công bố trong Kỷ yếu của Hội Vật lý Zurich năm 1916 và in lại
59