Page 63 - AllbertEstens
P. 63
Độ Satyendranath Bose gửi đến ông một bài báo để được ông
nhận xét và giúp đỡ công bô". Bài báo đã được Einstein chú ý,
một phần là vì nó chứng minh quan niệm của ông về "lượng tử
ánh sáng” mà nhiều nhà vật lý có tên tuổi như Planck vẫn
không tán thành hoặc không xem xét một cách nghiêm túc.
Công trình của Bose là một cách suy diễn mới công thức
bức xạ Planck dựa trên lập luận thống kê, không sử dụng một
giả thiêt nào của điện động lực học cổ điển, bức xạ trong hốc
được xem là một châ't khí lý tưởng các photon có năng lượng và
tần sô" theo thứ tự là hv và hv/c. Công trình đã được Einstein
dịch sang tiếng Đức kèm theo một chú thích ngắn và đăng ỏ
"Zeitschrift für Physik” näm 1924. Ý tưởng về thông kê trong
công trình này sau đó đã được ông mở rộng cho trường hợp các
nguyên tử không tương tác (1924, 1925), kết quả thu được là
thông kê Bose-Einstein, theo đó trong mỗi trạng thái có thể
tồn tại một số’ bất kỳ hạt. Einstein cũng lưu ý ngay một đặc
điểm của sự phân bố* các nguyên tử theo các mức năng lượng
lượng tử hóa được tiên đoán bởi thống kê này. Ở nhiệt độ rất
thấp nhưng hữu hạn, một phần lớn nguyên tử phải chuyển đến
trạng thái lượng tử năng lượng thấp nhât. Theo đúng lòi ông,
"Đã có sự tách riêng; một phần ngưng tụ lại, phần còn lại vẫn là
một khí lý tưởng bão hòa" (1925, dẫn theo [14]). Hiện tượng này
ngay nay chúng ta gọi là sự ngưng tụ Bose Einstein, trạng
thái tạo ra được như vậy gọi là th ể ngưng tụ Bose-Einstein
(BEC: Bose - Einstein condensate).
Tiên đoán trên đây của Einstein không được các nhà vật
lý xem xét kỹ lưỡng ngay từ đầu, kể cả chính Einstein, mãi cho
đến khi F. London và L. Tisza vào giữa những nảm 1930 làm
sống lại ý tưởng đó, xem nó có thể là một cơ chế của tính siêu
lưu của heli-4 lỏng. Như vậy các tác giả này lần đầu tiên đã đưa
ra ý tưởng vể khả năng BEC thể hiện các tính chất lượng tử ở
61