Page 68 - AllbertEstens
P. 68
các kết quả quan sát (đo) về hệ nhờ một thiết bị đo thích hợp,
không đề cập một điều gì khác ngoài các kết quả đo có thể có.
Thí dụ như trong thí nghiệm khe Young (cho một chùm sáng đi
qua hai khe hẹp nằm song song cạnh nhau để tạo ra hình các
vân giao thoa đen trắng trên một màn ảnh đặt sau đó), người ta
chỉ nói đến các khe và hình giao thoa thu được trên màn ảnh và
chỉ là như vậy, không cần biết đến và cũng không thể biết đến
những gì xảy ra trong khoảng từ các khe cho đến màn ảnh !
Cách giải thích này đã gắn các kết quả thu được về thê giới vi
mô với việc quan sát (đo) thế giới đó: Thế giới vi mô không tồn
tại chừng nào mà nó chưa được quan s á t!
Cách giải thích cơ học lượng tử của Bohr không thể làm
Einstein thỏa mãn. Ông có cái nhìn (vision) của ông về thê giới
đã hình thành từ truyền thống của vật lý học cổ điển và được
ông phát triển trong các khám phá mà ông là tác giả. Ông đưa
ra một sô" thí nghiệm tưởng tượng chứng minh rằng cơ học lượng
tử chứa đựng mâu thuẫn nhưng các lập luận này đều bị Bohr
»bẻ gẫy. Trong giai đoạn tiếp theo, ông thừa nhận rằng lý thuyết
này là nhất quán, không có mâu thuẫn nội tại, nhưng không
đầy đủ.
Trong một công trình năm 1935, Einstein cùng với B.
Podolsky và N. Rosen đã đưa ra một thí nghiệm tưởng tượng,
thưòng gọi là nghwh lý EPR, để chứng minh điều nói trên. Thí
nghiệm gồm hai hạt có liên quan với nhau (tổng xung lượng
bằng không) từ một nguồn phát ra theo hai hướng ngược nhau,
khi đo xung lượng của một hạt sẽ suy ra xung lượng gảa hạt kia
mà không phải đo nó và như vậy không làm nó bị nhiễu loạti,
có nghía là ta đã thu được một yếu tô" thực tại về hạt nằy độc
lập vổi việc quan sát nó, điều trái với cơ học lượng tử, cơ học
lượng tử như vậy là không đầy đủ. Kết luận này, tuy không
được các tác giả của nghịch lý nêu rõ, có nghĩa là phải có chỗ
66