Page 67 - AllbertEstens
P. 67
cũng như việc thực nghiệm khoa học [18], vì những biểu diễn
không-thời gian và nhân quả của vật lý học cổ điển về cơ bản
không còn thích hợp để mô tả các quá trình lượng tử. Và ông đã
đi đến "nguyên lý bổ sung" xem như cơ sở để giải thích cơ học
lượng tử. Quan điểm này được ông phát biểu lần đầu tiên năm
1927 tại một hội nghị vật lý ở Ý và sau đó trong cùng năm trình
bày lại tại Hội nghị Solvay lần thứ năm ỏ Brúcxen, nơi hội tụ
những nhà vật lý lỗi lạc nhất trên th ế giói, tại đây đã bắt đầu
cuộc tran h luận nổi tiếng giũa ông và Einstein kéo dài trong
hơn hai thập kỷ
Nguyên lý bổ sung của Bohr nói rằng có một môi quan hệ
(quan hệ bổ sung) giữa một sô" khái niệm cổ điển (thí dụ như vị
trí và xung lượng) mà việc sử dụng đồng thời sẽ trở thành mơ hồ
trong lĩnh vực lượng tử. Do hệ thức bất định, các khái niệm này
(vị trí và xung lượng) không thể sử dụng trong cùng một sự mô
tả hiện tượng được xét. Chúng tạo ra những sự mô tả không
tương thích nhưng "bổ sung" nhau. Quá trình lượng tử không
được mô tả bằng cách gán đồng thời một tập hợp tính chất mà
chỉ có thể là một chuỗi những biểu diễn riêng phần và không
tương thích với nhau. Ngoài ra, trong các biểu diễn riêng phần
phải có sự can dự của các điều kiện vể quan sát quá trình. Các
điều kiện thực nghiệm (quan sát) phải là một bộ phận trong
chính định nghĩa của hiện tượng lượng tử vì chúng gây ra một
ảnh hưởng không thể kiểm soát được đôl vói quá trình được xét.
Cách giải thích cơ học lượng tử do Bohr đưa ra đã được sự
tán trợ m ạnh mẽ của Heisenberg và Wolfgang Pauli (Leon
Rosenberg, học trò và cộng sự nhiều năm của Bohr, là ngưòi
biện hộ chính) và thường được gọi là cách giải thích
C o p e n h a g e n . Theo cách giải thích này thì hàm sóng cung cấp
một sự mô tả đầy đủ về một hệ riêng lẻ, thí dụ một electron.
Điểu "không dễ chịu" là trong sự mô tả ấy, người ta chỉ nói đến
65