Page 62 - AllbertEstens
P. 62
trong "Physikalische Zeitschrift" năm 1917.
Trong công trình này, biểu diễn một nguyên tử (theo như
Bohr) bằng các mức năng lượng gián đoạn của nó, ông đã xét sự
chuyển giữa hai mức. Ông chỉ ra rằng cần phân biệt ba qua
trình chuyển khác nhau (tuân theo các định luật thống kê): a)
Nguyên tử tồn tại ở mức cao và không có bức xạ (kích thích)
nào, khi đó sẽ có một xác suất nào đó để nó chuyển xuống mức
thấp vối một lượng tử của năng lượng ánh sáng được phát ra.
Đó là sự phát xạ tự phát, tương tự như sự phân rã phóng xạ; b)
Nguyên tử tồn tại ở mức thấp, do ảnh hưỏng của bức xạ, nó hấp
thụ một lượng tử và đạt tới mức cao theo định luật xác suất; c)
Nguyên tử tồn tại ỏ mức cao, do ảnh hưởng của bức xạ (kích
thích), sẽ phát ra một lượng tử và hạ xuông mức thấp theo định
luật xác suất giống như trong trường hợp trước.
Quá trình chuyển thứ ba được Einstein gọi là "sự phát xạ
cảm ứng" (induced emission). Khám phá về quá trình này, sau
một thời gian rất dài, đến năm I960, đã dẫn đến phát minh lớn
về lade (laser) vối hằng hà sa sô ứng dụng quan trọng trong
nghiên cứu khoa học, công nghệ và đời sống mà bất kỳ ai trong
chúng ta ngày nay, hàng ngày, ít nhiều cũng được hưởng thụ.
Ta lưu ý rằng sự phát xạ cảm ứng có bản chất rất khác vói
sự phát xạ tự phát. Trong khi sự phát xạ tự phát xẩy ra một
cách hỗn độn theo mọi hướng trong không gian, sự phát xạ cảm
ứng xẩy ra duy nhất theo hưống của chùm ánh sáng kích thích
mà nó tăng cưòng, do đó xứng đáng được gọi là "sự hấp thụ
âm". Ngoài ra, pha của dao động phát xạ lại được điều khiển
theo pha của bức xạ kích thích và kết hợp (coherent) với nó.
Nhưng những đặc tính này Einstein không nói đến trong công
trình của ông.
Năm 1924, Einstein lại một lần nữa tham gia một cách
quyêt định vào nghiên cứu lý thuyết ánh sáng khi nhà vật lý Ấn