Page 160 - AllbertEstens
P. 160
và N. Bohr (1913) nhằm giải quyết một sô vấn đề bê tắc của vật
lý học cổ điển: Sự phụ thuộc tần sô' của mật độ năng lượng bức
xạ phát ra từ một cái hốc được nung nóng (phổ bức xạ vật đen),
các tính chất của dòng điện xuất hiện khi kim loại được chiếu
sáng (hiệu ứng quang điện), các quỹ đạo của electron trong
nguyên tử (theo mô hình hành tinh, các electron sẽ rơi vào hạt
nhân trong không đầy một chớp mắt - một phần của nghìn tỉ
giây). Các ý tưởng mối này kết hợp với cơ học và lý thuyết điện
từ cổ điển tuy giải quyết được các vấn để trên nhưng chưa tạo
thành một lý thuyết nhất quán, v ả lại, cách giải quyết này cũng
dần dần tỏ ra kém hiệu quả trước các dữ kiện thực nghiệm mới.
Nhu cầu về một "cơ học mới" ("cơ học lượng tử" theo cách gọi của
M. Born từ năm 1924) cho các thực thể thuộc thế giới nguyên tử
đã được đặt ra và đã có hai khám phá lốn tạo ra hai con đường
đi đến lý thuyết này: Nguyên lý tương ứng và sóng vật chất.
Nguyên lý tương ứng đã được Bohr nêu lên từ những năm 1918-
1920 và được ông phát biểu một cách rõ ràng năm 1923: Lý
thuyết lượng tử phải tiệm cận đến lý thuyết cổ điển. Đây là con
đưòng theo đó w. Heisenberg năm 1925 đã khám phá ra cơ học
ma trận. Sóng vật chất là đề xuất của L. de Broglie (1923-1924)
xuất phát từ ý tưởng vể tính đôi xứng sóng-hạt của bức xạ và
vật chất. Phát hiện này đã gợi ý cho E. Schrödinger khám phá
ra cơ học sóng năm 1926 - một con đưòng khác đi đến "cơ học
mới" (xem các Phu lục A2 và A3).
Như vậy là cơ học lượng tử đã hình thành dưới hai dạng
độc lập với nhau - cơ học ma trận và cơ học sóng - nhưng ngay
sau đó (1926) chúng đã được Schrödinger chứng minh là tương
đương. Nó đáp ứng một cách tuyệt vòi nhu cầu cấp bách lúc bấy
giờ về "cơ học mới" mà mọi người chờ đợi. Là một tập hợp các
tiên đề phát biểu theo ngôn ngữ đại sô" học tuyến tính và lý
thuyết không gian Hilbert (xem Phụ lục A4), cơ học lượng tử đã
cho phép suy ra một cách hệ thống và chính xác các kết quả
158