Page 74 - Báo Cáo Tổng Kết Đề Tài
P. 74

từ trên.  Trong vài năm gần đây, nhiểu trường THCN nhận chỉ tiêu hàng năm,
                nhưng kinh phí ĐT kèm theo chỉ đáp ứng được trung bình 63% của tổng chi phí
                cần thỉết ứng với số chỉ tiêu được phân bổ.

                      Trong điều kiện thị trường LĐ kỹ thuật trong nước cũng như quốc tế biến
                động thường xuyên cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành nghề như hiện
                nay, để đảm bảo ĐT phù hợp với yêu cầu KT -  XH, lẽ ra các cơ sở ĐT phải chủ
                động nắm bắt thị trường LĐ và trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch ĐT của cơ sở.

                Tuy nhiên, cơ chế phân phối chỉ tiêu ĐT cũng như kinh phí ĐT như hiện nay đã
                và đang hạn chế tính năng động của các cơ  sở ĐT: nhà trường không cần chú ý
                nhiều tới thị trường LĐ, mà chỉ đào tạo theo chỉ tiêu được giao (mặc dù chỉ với
                63% mức kinh phí cần trang trải). Cũng phải nói thêm rằng, cơ sở khoa học của

                hệ thống chỉ tiêu hiện nay cũng không rõ ràng.  Cho đến nay, việc nghiên cứu
                nhu cầu lao động THCN cũng chưa được chú ỷ đúng mức.
                      Từ những phân tích trên cho thấy, cơ chế quản lý kiểu bao cấp đối với các
                trường công  lập hiện nay, nhất là về kế hoạch ĐT,  là một nguyên nhân quan

                trọng kìm hãm tính năng động'của các trường, chưa phát huy tốt tiềm năng của
                cơ sở, của mỗi GV và cán bộ quản lý. Vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý các
                trường THCN sao cho thích ứng với nền KT thị trường định hướng XHCN đang

                là một yêu cầu bức xúc.
                  4). Các trường THCN ngoài công lập còn ứ và một số trường chưa khẳng
                      định được năng lực đào tạo
                     Để đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội và phát triển nguồn nhân lực, đặc

                biệt là nhân  lực kỹ  thuật nghiệp vụ, trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn
                hạn hẹp, từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX , chính sách XHH giáo dục được
                ban hành. Đối với GD THCN, chủ trương cho mở các trường THCN ngoài công
                lập (CL) đã và đang tạo nên những biến động mới trong sự phát triển hệ thống.

                      Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, đến 2005,  cả nước có 47 trường THCN
                ngoài CL, chiếm  16,49% trong tổng số trường, nghĩa là 83,51% là trường CL.
                Xét cụ thể hơn ta thấy rằng, đến nay đã gần  10 năm kể từ khi Nghị quyết 90/CP
                ngày 21/6/1997 (Nghi quyết cho phép mở trường THCN ngoài công lập) ra đời,

                số lượng 47 trường nêu trên còn quá nhỏ so với nhu cầu học tập của thanh niên
                HS cũng như so với đòi hỏi của sự phát triển KT -  XH. Như vậy, vẫn tồn tại
                mâu  thuẫn:  Nhà nước không đủ nguồn  tài  chính  để cung cấp cho các  trường
                CL, kể cả đáp ứng chi phí ĐT theo định mức chỉ tiêu do nhà nước đặt ra, trong

                khi nhu cầu học tập của thanh niên hiện nay cao hơn nhiều so với khả năng ĐT
                của các trường.






                                                        63
   69   70   71   72   73   74   75   76   77   78   79