Page 72 - Báo Cáo Tổng Kết Đề Tài
P. 72

nhân lực  kỹ  thuật nghề  nghiệp theo hướng đòi  hỏi  cao  hơn  vể  trình  độ,  chất
               lượng và tăng số lượng LĐ kỹ thuật nghề nghiệp. Nói cách khác, nền KT đang
               từng ngày đổi mới đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với ĐT nhân lực THCN:

               vừa phải mả rộng quy mô, vừa phải chú trọng nâng cao chất lượng và đa dạng
               hoá ngành nghề.
                  Tuy nhiên, nhận thức của nhiều người trong xã hội về vai trò của lao động
               THCN,  đặc  biệt là trong giai đoạn  đẩy mạnh CNH,  HĐH  lại chuyển  biến rất

               chậm. Đáng buồn là còn tồn tại sự hoài nghi rằng liệu lao động THCN có còn
               cần thiết nữa hay không? Nguyên nhân của nhận thức như trên trước hết có thể
               do thiếu thông tin về thị trường LĐ, do ĐT chưa gắn với sản xuất dẫn đến tình
               trạng ngành này  thừa,  ngành kia thiếu LĐ  và một phần  có  thể do tính  HĐH

               nhanh chóng của nền sản xuất, làm cho người LĐ không thể chuyển đổi kịp và
               trở nên không thích ứng được với  yêu cầu, nhiệm vụ mới và bị đẩy khỏi dây
               chuyền sản xuất.
                     Mặt khác,  cùng với nhận thức nêu trên, tâm lý chuộng bằng cấp, coi học

               ĐH là con đường duy nhất để tiến thân là một rào cản lớn đối với sự phát triển
               THCN.
                  2). Đầu  tư  tài chính của Nhà nước có tàng dần nhưng vẫn còn rất thấp

               so với yêu cầu và còn dàn trảiy chưa tập trung cho những mục tiêu ưu tiên
                    Trong những năm gần đây, đầu tư cho GD nói chung, giáo dục THCN nói
               riêng,  hàng  năm  đều  tăng  lên  (mục  2).  Tuy nhiên,  cùng  là  GD nghề  nghiệp,
               nhưng mức đầu tư cho giáo dục THCN thường thấp hơn nhiều lần, thường chỉ

               gần bằng ẳ mức đầu tư cho DN. Ví dụ: Năm 2002, đầu tu chiều sâu cho DN là
                110 ti VNĐ chưa kể các dự án khác như ADB 121  triệu USD, trong khi đó con
               số này của giáo dục THCN chỉ là 25 tỉ VNĐ. Hơn nữa, về tỷ trọng vốn đầu tư
               của Nhà nước cho các chương trình mục tiêu của GD THCN trong tổng vốn đầu

               tư cho các chương trình mục tiêu của GD&ĐT lại có xu hướng giảm. Cụ thể là:
               Tỷ  lệ  kinh  phí  nói  trên  dành  cho  THCN  năm  2001  là  3,33%;  năm  2002  là
               3,52%, thì năm 2003 chỉ là 3,09% và năm  2004 còn thấp hơn (2,80%).
                     Mức chi phí cho đào tạo 1 học sinh THCN theo quy định ỉà 3,9 triệu đồng,

               nhưng trên thực tế ở một số trường, nhất là các trường địa phương, khoản chi
               phí này chỉ còn chưa tới 1 triệu đồng.
                     Cùng với đầu tư chưa thoả đáng cho đào tạo THCN, mức học phí thềo quy
               định của Nhà nước cũng rất thấp. Như đã biết, học phí là khoản thu chủ yếu của

               các trường THCN.  Vì vậy, nhiều trường rất thiếu tài lực để cải thiện các điều
               kiện đảm bảo chất lượng. Đặc biệt, khoản kinh phí cho việc nâng cấp, mua sắm
               trang  thiết  bị  dạy  học,  nâng  cao  trình  độ  chuyên  mồn  cho  đội  ngũ  GV  nói




                                                       61
   67   68   69   70   71   72   73   74   75   76   77