Page 73 - Báo Cáo Tổng Kết Đề Tài
P. 73

chung, cũng như khả nãng tiếp cận với công nghệ mới và phương pháp dạy học
                tiên tiến là rất hạn chế.  Thực tế, những năm gần đây, đội ngũ GV các trường
                DN và THCN tăng chậm, tỉ lệ HS/1  giáo viên THCN là 21,6, cao hơn nhiều so

                với quy định (15). Đa số  GY còn hạn chế về kỹ năng thực hành và khả năng
                tiếp cận với máy móc, thiết bị và phương pháp dạy học mới.
                     Thêm nữa, đầu tư tài chính theo định mức như hiện nay rất dàn trải, chưa
                tập  trung  ưu  tiên  cho  các  trường  THCN  trọng  điểm,  mũi  nhọn,  cho  nhũng
                ngành nghề đang có nhu cầu cao trong nền KT -  XH. Trong “Báo cáo về tình

                hình  giáo  dục”  trước  Quốc  hội  của Bộ  trưởng  Bộ  GD&ĐT (10/2004)  có nêu
                nhiệm vụ: “đến 2010 xây dựng 40 trường dạy nghề trọng điểm”; “cơ bản hoàn
                thành giai đoạn  1  xây dựng 2 đại học quốc gia và 2 trường đại học sư phạm”,

                nhưng không thấy nói đến việc đầu tư xây dựng các trường THCN trọng điểm.
                     Đặc biệt, thiếu sự đầu tư tài chính cho việc xây dựng các trường THCN ở
                các  vùng  nông  thôn,  vùng  xa,  nơi  còn  thiếu  trường  THCN.  Có  nhiều  người
                trong độ tuổi LĐ nhưng vì nghèo không có điều kiện thoát ly gia đình để học

                tập.  Sự đầu tư này rất cần thiết để tạo điều kiện cho những người nghèó có cơ
                hội được ĐT nghề nghiệp. Đây là lực lượng đáng kể bổ sung vào đội ngũ nhân
                lực có chuyên môn, nghiệp vụ theo các ngành nghề đáp ứng yêu cầu phát triển
                KTkinh tế địa phương cũng như để xuất khẩu LĐ.

                  3).  Cơ chế quản lý đối với các trường  THCN công lập không  phù  hợp
                     với  điều  kiện kinh tế thị trường
                     Việc chuyển đổi nền KT sang cơ chế thị trường đã được thực hiện ở nước ta
                gần  20  nãm  nay,  nhưng  cơ chế quản  lý  GD nói  chung,  trong đó  quản  lý  các

                trường THCN chưa tương thích  với  nền KT thị  trường  định  hướng XHCN và
                nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của quốc gia. Quản lý nhà nước về GD còn
                mang nặng tính quan liêu, còn ôm đồm, sự vụ. Đáng lưu ý hom là công tác xây

                dựng qui hoạch, kế hoạch ĐT còn nhiều bất cập.  Đây là một nguyên nhân cơ
                bản hạn chế sự  phát triển GD&ĐT nói chung, trong đó có GD THCN.
                     Để thấy rõ sự bất cập này, xin dẫn ra cụ thể vấn đề kế hoạch ĐT. Nhiều
                năm  nay,  kế hoạch  ĐT  của  nhà  trường  phụ  thuộc  vào  chỉ  tiêu  Bộ  giao  cho

                trường. Việc giao chỉ tiêu còn mang tính chất xin -  cho, dẫn đến sự thiếu chủ
                động của các trường trong xây dựng kế hoạch ĐT. Kết cục là, những năm vừa
                qua  tuy  số lượng  học  sinh  THCN  được  ĐT có  tăng  lên,  nhưng  vẫn  cỀưa  đạt
                được sự phù hợp cả về quy mô, chất lượng và ngành nghề đối với yêu cầu nhân

                lực của thị trường.
                     Hiện nay, Nhà nước phân chỉ tiêu THCN cho các trường chủ yếu dựa trên
                ngân sách cho ĐT của bậc học này. Vì vậy, chỉ tiêu này hàng năm được ấn định




                                                       62
   68   69   70   71   72   73   74   75   76   77   78