Page 71 - Báo Cáo Tổng Kết Đề Tài
P. 71
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong phát trỉển qui mô đào
tạoTHCN
Trong những năm gần đây, các cs đổi mới GD đã có nhiều tác động tích
cực làm cho số lượng học sinh THCN tăng nhanh. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
cụ thể kết quả phát triển qui mò đào tạo THCN trên thực tế cho thấy, số lượng
học sinh THCN được ĐT còn rất thấp, khó có thể đạt được mục tiêu số lượng
đặt ra. Việc tăng số lượng HS như vậy vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về lao
động THCN của nền KT - XH cả về số lượng và chất lượng. Vậy nguyên nhân
nào dẫn đến kết quả như trên?
Chúng ta biết rằng kết quả trên do nhiều yếu tố tác động, ậ đây, do mục
tiêu của đề tài, chúng ta chỉ tập trung nói về nguyên nhân trong quản lý GD
ĐT, để từ đó xác định hướng đổi mới cs trong thời gian tiếp theo.
1). Nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, nhu cầu nhân lực THCN trong nền
kinh tế nước ta,
Trong thời kỳ bao cấp, lao động THCN được coi là LĐ gián tiếp và thường
được gọi là “cán bộ trung cấp”. Công nhân là lực lượng LĐ trực tiếp duy nhất,
còn lao động THCN chỉ đóng vai trò giám sát thao tác kỹ thuật và kiểm tra chất
lượng kỹ thuật các sản phẩm của người công nhân (kỹ thuật viên) hoặc thực
hiện các nghiệp vụ (nhân viên nghiệp vụ). Vì vậy, số lượng lao động THCN so
với công nhân chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Thường mỗi cơ sở sản xuất (nhà
máy, xí nghiệp) chỉ có vài LĐ trung cấp. Vào thời kỳ đầu đổi mới (1986 -
1991), nền KT - XH lâm vào tình trạng khủng hoảng, GD kỹ thuật nghề
nghiệp, trong đó có giáo dục THCN bị suy giảm cả về quy mồ và chất lượng.
Vì những lý do khác nhau, nhiều LĐ, trong đó có kỹ thuật viên khồng tìm được
việc làm, phải làm việc không đúng nghề được ĐT, hoặc bị đẩy khỏi dây
chuyền sản xuất. Tình hình trên đã làm nảy sinh trong xã hội suy nghĩ rằng lao
động THCN không còn cần thiết nữa.
Từ 1993-1994, giáo dục THCN dần dần ổn định và có những bước phát
triển nhờ một số cs đổi mới GD. Đặc biệt, từ năm 2000 đến nay, nền sản xuất
hiện đại đã và đang đòi hỏi ngày càng nhiều LĐ trực tiếp, vừa có văn hoá phổ
thông hoàn chỉnh, vừa có tri thức và kỹ năng nghề nghiệp để có thể thích ứng
nhanh chóng với những tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới quản lý và chuyển
dịch cơ cấu KT và cả hội nhập, toàn cầu hoá. Như trong phần 2 đã trình bày,
hiện có nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh tuyển người tốt nghiệp THCN vào làm
công nhân. Thậm chí có cơ sở hoàn toàn không tuyển công nhân, mà chỉ tuyển
người tốt nghiệp THCN vào các vị trí trực tiếp sản xuất. Rõ ràng, chính thực tế
hoạt động lao động sản xuất, dịch vụ xã hồi đã và đang làm thay đổi nhu cầu
60