Page 239 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 239

thóc,  1.229 cân tơ,  573  lạng vàng,  1.072 lạng bạc,  1  vạn quạt giấy,
       3.315 cân sơn sông, 500 cân phèn chua.
             Chính  quyền  đô hộ giữ độc quyền buôn bán muối.  Mỗi huyện
       đều  có  ty  Diêm  khoá.  Muối  sản  xuât  ra  phải  nộp  quan.  Nấu  lậu
       hay bán lậu phải tội rất ncặng.  Người đi đường chỉ được phép mang
       nhiều nhất ba bát muôi,  một lọ mắm. Thời có quân nghĩa dũng nổi
       dậy,  lo  có  đủ  lương  thực  nuôi  quân,  người  Minh  không bán  muôi
       bằng tiền,  dù giá đất,  mà chi’ đổi lấy thóc,  gạo.
             VIỆC SƯU DỊCH - Ngưòi  Minh  lập  ra  Kim  trường cục  khai  thác
       vàng bạc,  thái liệu  sứ lâm thô sản, châu trường cục,  ngọc trai  dưới
       biến,  bắt  dân  đi  khai  mỏ  quý  kim,  lên  rừng  tìm  sừng  tê,  ngà  voi,
       gỗ quý, xuông biển  mò trai kiếm  ngọc.  Thổ sản như hồ tiêu,  hương
       liệu  phải  nộp  cống.  Thợ  khéo  bị  bắt  đưa  sang  Trung  Quốc.  Nàm
       1407,  Trương  Phụ  bắt  đưa  sang  hơn  7.700  thợ các  nghề.  Đàn  bà,
       con gái và  trẻ con  bị bắt đưa  đi  làm nô,  tỳ.  c ả   đến  những con hát,
       phường  nhạc,  thầy  thuốíc  cũng  chịu  chung  sô" phận.  Dân  phu  và
       thợ  thuyền  sang  làm  việc  tại  các  công  trường bị bóc  lột  tàn  khốc.
       Người  khác  phải  làm  nô  tỳ  các  nhà  quyển  quý.  Rất  ít  người  sau
       được trở  về  quê  hương.  Những  thợ thủ  công  khéo  tav,  nhất  là  thợ
       đóng  thuyền  xe,  người  Minh  đưa  đi,  muôn  bắt  ở  lại  hẳn  Trung
       Quôc nên được phép mang theo vợ con.
             PHÉP  Hộ  THIẾP  VÀ  HOÀNG  SÁCH  -  Việc  điền  hộ  phải  theo  như
       bên Trung Quốc.  Ai cũng phải có giấy biên tên tuổi hương quán đưa
       trình  mỗi  khi  có  khám  hỏi.  Giấy  này  biên  theo  như  trong  sổ  quan
       giữ. Hễ giấy trình ra không hỢp thì người mang phải bắt đi lính.
             Các  lý,  phường,  tương  phải  làm  sổ  biên  tất  cả  sô"  đinh,  sô"
       điền.  Những người  tàn  tật, cô quả thì  biên riêng ra ỏ sau,  gọi là kỷ
       linh.  Sô biên thành  4  bán:  Tcập  bìa  vàng gọi  là  hoàng sách,  dê  gửi
       về bộ hộ.  Ba bản bìa xanh dể ỏ các cấp hành chính.
             VỂ  BINH  LÍNH  -  Về  việc  cai  trị,  người  Minh  phải  cần  dùng
       nhiều  người  bản  xứ  làm  quan  lại  giúp  đỡ  thì  về việc  võ bị,  chúng
       cần  lấy  nhiều  người  bản  xứ  sung vào  quân  đội.  Đe  sẵn  sàng  trấn
       áp  mọi  phản  kháng,  hệ  thông  tổ  chức  quân  sự  to  lốn  được  dựng
       lên.  Nhiều  đồn  luỹ  mọc  lên  khắp  nơi,  39  thành  luỹ  lốn  được  xây
       dựng.  Ngay từ năm  1407,  lực lượng võ bị gồm  14 vệ và 4 thiên hộ.
       Mỗi  vệ  có  5.600  quân;  mỗi  thiên  hộ  1.120  quân.  Việc  bắt  lính  thì
       cứ theo  sô hộ.  Chính  quyền  đô hộ xét  duyệt danh  sô  quân bản xứ,
       lấy  một  phần  ba  sô" hộ  khẩu,  chia  lệ  vào  các  vệ  sở,  mỗi  hộ  định
       mức là  3  đinh.  Từ Thanh  Hoa  trở, vào nam,  vì sô" dân  đinh ít,  định

                                                                             239
   234   235   236   237   238   239   240   241   242   243   244