Page 196 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 196

Ngưòi  Mông  Cổ  đánh  chiếm  cai  trị  Trung  Quốc  nhưng  ván
        hoá,  kỹ  thuật  thua  kém  người  Hán  nên  bị  Hán  hoá,  đến  nỗi  có
        người trong tôn thất gọi đồng hào mình là thằng rỢ (hồ nhi).
              Các  nước  phương  tâv  lần  lượt  nổi  dậy  chông  đôì  thu  hồi  độc
        lập.  Dân  Hán  cũng  theo  đà  này.  Năm  1348,  Phùng  Quốc  Chưng
        nổi  dậy  ở  Chiết  Giang.  Năm  1351,  có  Bạch  Liên  giáo  dấy  quân
        khắp mọi nơi. ơ Dĩnh Châu, có Lưu Phúc Thông, ở Tần Thuỷ có họ
        Từ Thọ  Huv. Đáng kê hơn cả là Quách Tử Hưng ở Hào Châu,  Chu
        Nguyên  Chương  phụ  theo;  Trương  Sĩ  Thành  ở  Cao  Bưu.  Năm
         1356,  Chu  Nguyên  Chương  lấy  Kim  Láng.  Năm  1360,  Trần  Hữu
        Lượng  lấy  Giang  Châu  (Nam  Kinh).  Khắp  Trung  Quốc  loạn  lạc.
        Nhà  Nguyên  không  chê  ngự  được.  Các  hào  kiệt  lại  tranh  giành
        nhau  anh  hướng,  đánh  lẫn  nhau.  Chu  Nguyên  Chương  trong  15
        năm  dứt được nhà  Nguyên,  đại định thiên hạ,  dựng nên cơ nghiệp
        nhà Minh,  lên ngôi hoàng đế năm  1368.
              Tập đoàn thông trị Nguyên Mông lui về xứ sở cũ. Sau có tên Yên
        vương Tĩnh Nan (Tamerlan, Timour Lank)  anh hùng mưu toan đánh
        chiếm  lại Trung  Quôc,  niâd năm  1405  trong khi  tiến  quân.  Mông  cố
        sau trở thành  một  xứ  thuộc Đại Minh.  Dân  xứ  này hiến thành  nông
        dân và dân du mục, không còn là những chiến sĩ chuyên nghiệp nữa.

                                   IRẨN h Cl  Lượng

              Trần  Hữu  Lượng  là  nhân  vật  lịch  sử  Trung  Quốc  nhưng  là
        người  Việt,  con  Trần  ích  Tắc  dược  vua  Nguyên  phong  làm  bình
        chương  chính  sự  tỉnh  Hồ  Quảng  ở  Ngạc  Châu.  Bắc  sử  chép  Hữu
        Lượng  người  Cái  Dương,  dòng  dõi  nhà  đánh  cá,  không  nói  là  gốc
        An  Nam.  Giữa  thế  kỷ  XIV,  nhà  Nguyên  suy  yếu,  người  Hoa  nổi
        dậy  khắp  nơi.  Hữu  LưỢng,  cũng  như  cha,  có  tham  vọng  làm  vua,
        không có dịp trở về nước,  lãnh đạo  một sô" người Hoa chông  đôi lại
        ân  nhân  của  cha  con  mình.  Năm  1360  xưng  đế  ở  Thái  Trạch,
        chiêm  cứ  các  tỉnh  Giang  T.ây,  Hồ  Quảng,  lấy  ứng  Thiên  (Nam
        Kinh)  lập  kinh  đô,  đặt  quốc  hiệu  là  Hán,  nhắc  nhở  người  Hoa
        giông Hán theo về mình,  niên  hiệu là Đại Nghĩa.
              Trong bôn năm  làm vua  ở ững Thiên,  Hữu  Lượng có công với
        dân  Hoa,  xây  dựng xã  hội  giầu  mạnh,  làm  thuỷ  lợi  khai  sông  đắp
        đê,  khiến dân chúng được  no  ấm hơn các  nơi  khác,  trật tự an  ninh
        được đảm bảo, ít có trộm cướp, lễ độ ky luật được duy trì.
              Năm  1354,  Hữu  Lượng  dấy  quân,  sai  sứ  sang  ta  xin  hoà
        thân.  Bấy giờ Minh Tông thượng hoàng cầm quyền.
         196
   191   192   193   194   195   196   197   198   199   200   201