Page 82 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 82

“Vùng phía  Nam  hán đào Đồ Sơn  luôn  luôn  dược phù  sa  bồi dấp
         dã không thể nào lại không như thể từ xưa. Nếu dể ỷ dốn sự thành lập cúc
         lùiuị ven hiển mà ranh giới các làng cứ xếp thẳng hùng thẳng lớp thì thấy
         dúm> như những miếng đất .xắn  ra  vù .xếp  vào theo sự lớn  rộng của dồng
         hâm>    Tuy  nhiên,  Gourou  nói  tiếp:  “chúng  ta  khôníị  dọc  dược  những
         dâu  hiệu  mà  dất  liền  mà rộng dã dặt ra,  bài  chúng  ta  không  hiêr phải
         mất hao nhiêu thời gian  đểdư('mg ven hiển ấv thành hình
              Trong sách khảo cứu giá trị  của ông, ông có bản vẽ những đưòfng bờ
         đê, khởi đầu là Hồng Đức năm  1471  lan dần ra biển là những đường đê năm
         1830,  1899,  1927,  1934 để chứng tỏ đất mở rộng ra. Trong bản đồ còn ghi
         địa điểm Thần Phù xưa là cửa biển, cùng với đường sông con nối  sông Đáy
         vào Thần Phù mà theo ông, người  Việt đã dùng từ thế kỷ thứ V để liên lạc
         với Thanh Hoá và cửa Đại An là cửa sông Đáy  ra biển hồi xưa‘“*.
              Để kết luận, ông viết: Chúng ta thực không được biết hờ hiển tiến ra
         sao về trước thế kỷ XIX. Một sự kiện có thể chắc chắn dược lù từ 1470 đến
         1830 dất liền  ở Ninh  Bình  đã tiến  ra  hiển  dược từ 10 đến  12  km  (trung
         hình  là 3km mối thếkv).  Vùng Đông Bắc sông Đáy nếu hờ hiển  là ở Đại
         An  năm  1044  thì đất lán  ra  là 25 km  trong 900 năm  (trung hình  2,5km
         mối thế kỷ); nếu hờ hiển là ở Quần Phương giữa thế kỷ XV thì đất lân  ra
         12,5km  trong  300  năm  (trung  hình  4km  mồi  thế kỷ);  nếu  huyện  Hưng
         Nhân  ở hờ hể năm  1000  thì đất lấn  ra 40km  trong  9  thế kỉ (trung hình
         4km một thế ky).


           Người ta đếm  không dưới 24 đường thẳng tắp những vết tích đất lan ra biển  trong
         khu  sông Trà  Lý  và  sông  Hồng.  Đó  là  kể  từ Tây  Bắc  xuống  Đông  Nam:  ranh  làng
         Đức  Hiệp  (tống  Cự  Lâm,  huyện  Thư  Trì,  Thái  Bình),  làng  Ngoại  Lãng,  (tổng  Vô
         Ngại)  Mỹ  Lộc  (tổng  An  Điền),  làng  Văn  Lâm  (tổng  Vó  Ngại),  làng  Nguyệt  Lãng
         (tổng  Nội  Lãng),  làng  Thọ  Lộc  (tổng  Bồng  Điền),  làng  Huyền  Trực  (tổng  Nội
         Lãng),  làng La  Uyển  (tổng  Khê Kiều),  hàng  Bình Yên  (tổng  Khê  Kiều),  làng Tri  Lai
         (huyện  Vũ Tiên, tổng Tri  Lai),  làng Tường  An  (tổng o Mễ),  làng Đại  Lai  (tổng Tri
         Lai),  làng  Đoan  Túc  (tổng Tri  Lai),  tỉnh Thái  Bình  ,  làng  Lạc  Đạo  (tổng  Lạc  Đạo),
         làng Tống  Vũ  (tổng  Hội  Khuê),  làng  Hội  Khê  (tổng  Hội  Khê),  làng cổ Ninh  (tổng
         Xuân  Vũ,  phủ  Kiến  Xương),  làng  Luật  Ngoại  (tổng  Xuân  Vũ),  làng  Cao  Bạt  Lũ
         (tổng Nam  Huân),  làng  Phương Ngài  (tổng Nam  Huân),  làng  An  Bồi  (tổng  An  Bồi),
         làng  Phương  Trạch  (tổng  Cao  Mại),  làng  Lưu  Phương  (lổng  Tân  An),  p.  Gourou,
         Sđd, tr  242.
         *■’ Thần  Phù,  nơi  vua  Hùng được  một ông già hướng dẫn để dưa quân vào Cửu Chân
         dẹp giặc,  sau  khi  thắng trận,  không tìm  thấy  người,  vua cho  là Thần  nhân  và phong
         là  Áp  Lãng  Chân  Nhân,  thì  không  phải  chí  đến  thế kỷ  thứ  V  người  Việt  mới  biết
         dùng đường sông dào ấy.

         86
   77   78   79   80   81   82   83   84   85   86   87