Page 78 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 78

Chúng ta lại để ý về sự diễn ta hương vị:
              Thơm,  nói  mím  miệng  và  hít  hơi  vào.  Thối,  nói  rồi  thì  hơi  phải
         phụt  ra  cả  đàng  mồm  và  đàng  mũi.  Thủm  cũng  vậy,  Khắm  cũng  vậy.
         Hác  khi  nói  thì  nhăn  mặt  và  giữ  chơ  hơi  bất  động.  Khét  cũng  vậy.
         Thoang thoảng thì  rõ ràng  là hương  bay  loang  loang ra.  Thơm  ngát thì
         rõ ràng là hơi được hít thật sâu vào.
               Rồi chúng ta lại xem sự diễn tả tình cám:  Cười, đố ai  nói mà không
         nhếch  mép  nhe  răng  và tươi  mặt  lên.  Khóc  thì  cả  môi  lẫn mắt  cùng có
         một động tác cúp xuống. Tức thì nói như hắt hơi từ trong ra. Giận thì vừa
         nói vừa nghiến răng lại. Buồn thì hơi ra thườn thượt. Vui thì mặt tươi  lên.
         Cáu  thì  nhãn  mặt  và quác  mắt.  Thích  thì  nhe  răng...  Tất  ca những  biểu
         thị  tình cám ấy với  những âm  tiếng thích  đáng ấy đã không  đổi  chỗ cho
         nhau được.
               Như thế nghĩa là từ màu sắc đến mùi  vị,  hương vị,  tình  cảm thật  là
         hoàn  toàn  trừu  tượng,  tiếng  Việt  cũng  có  âm  tiếng  riêng  để  diễn  tả  nổi.
         Mà đến những phong thái người cũng lại có tiếng để diễn tả nữa, như:
               Lử khử lừ khừ,  ngây ngô,  lờ đờ,  lắng nhắng,  luẩn  quẩn,  lơ láo, ngơ
         ngẩn, nghênh ngang, vênh váo...
              Thì hiển nhiên tiếng Việt phải là một tiếng tượng hình.
               Sau  đó,  chúng  tôi  đcã  lập  bảng  kê  các  âm  tượng  hình  và  các  tiếng
         cùng gốc theo 22 bộ đã nói, thì thấy kết quả:  có 204 âm tượng hình (tỷ lệ
         4 phần 5 âm tượng hình) nên nhận ràng tiếng Việt  là tiếng tượng hình, ta
         đ ã   không nhận điều gì quá đáng vậy.
               Chúng  ta  ghi  nhận  thêm  ràng  không  chắc  những  âm  tiếng  này  là
         những âm liếng có từ nguồn  gốc;  nhưng từ nguồn gốc chác đã có những
         mẩm mống của những liếng kêu tương tự.
               Chưa biết chừng người Việt cổ chúng ta không có chữ viết thực.  Và
         chỉ  vì  không  có chữ đế  ghi  nhũ'ng  điều  thấy  biết  nên  người  xưa đã  phải
         ghi vào trong trí nhớ những diều nhận xét rất tinh tường của lai và mát, để
         cho tiếng nói có khả năng tượng hình như vậy. Trí nhớ của người xưa quả
         là  sợi  băng  thâu  hình  ghi  lại  những  gì  mà  tai  và  mắt  là  những  dây  trời
         (antenne) truyền về, để khi quay trở lại, thì bộ máy phát âm lại diễn trở ra
         tất cả một cách rất trung thực.
               Điều  tưởng  rằng  sở đoản  dã chính  là  sở trường.  Và  cái  vốn  ngôn
         ngữ cửa tiền nhân để lại tưỏfng chỉ  loàng xoàng thôi đã chính  là kho tàng
         vô giá, dám chắc ít có tiếng nước nào đặc biệt như thế.
               Sự  kiện  không  có  chữ  viết  chưa  hán  đã  chứng  tỏ  là  dân  tộc  kém
         thông minh và kém văn minh hơn.

         82
   73   74   75   76   77   78   79   80   81   82   83