Page 44 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 44

PHẦN THỨ NHẤT

                              GIAO CHỈ MIỂN  NAM



                                     CHƯƠNÍỈI

                               VẤN ĐỀ TỪ NGỮ


                                     [ ÓM LƯỢC

           Danh từ Văn Lang gốc ở chữ Nho, dùng đặt tên cho nước của người
      Giao  Chỉ  đã  không có  ngay  từ hồi  đầu,  chưa giao  thiệp với  Trung  Quốc
      và  chưa  biết  chữ.  Cả  những  nhân  danh  Hùng  Vương,  Mị  Nương,  những
      chức phẩm Lạc hầu, Lạc tướna và những địa danh Phong Châu, Cửu Chân
      v.v... cũng vậy.
           Con cháu  về ,sau  yêu nước  mình và trọng  tổ tiên  mình  mới tìm  chữ
      đẹp để đặt tên.
           Lang có  13 tự dạng với  13 nghĩa khác nhau. Ai cũng phải lựa nghĩa
      hay nhất, viết với bộ nữ, theo thành ngữ Ngục Kinh Lang Hoàn là nơi trời
      để kinh  sách  hay  Lung Hoàn  Phúc  Địa,  có  nghĩa  là  khu  đất  được  diễm
      phúc trời cho.  Sau có  lẽ bị Tàu đô hộ,  phải  sợ và rút xuống chữ Lang với
      bộ  ấp,  có  nghĩa  là  một  chức  quan  nhỏ.  Tên  nước  thành  ngớ  ngẩn,  chỉ
      dùng đặt tên người thì hợp hơn.
           Vậy nay có lẽ nên lấy lại nghĩa nguyên thuỷ của nó.

      VẤN ĐỂ TỪ NGỮ

            Danh lừ Văn Lang gốc ở chữ Hán, dùng đặt quốc hiệu cho nước của
      người  Giao  Chỉ,  đã  không  thể  có  được  ngay  từ  hồi  đầu  (cũng  như  các
      nhân danh  Hùng Vương (hay Lạc Vương), Mị  Nương, và các  chức phẩm
      Lạc  háu,  Lạc tướng)  vì hồi  dầu không có chữ Nho,  lại  không hề  có giao
      thiệp thường  xuyên  với Trung  Quốc.  Chỉ về  sau  này,  vào cuối  đời  Hùng
      Vương, bên Tàu có loạn, đã có một số nho sĩ Tàu di cư lánh nạn qua đem
      chữ Nho ấy dạy dân và đem sách Nho qua để phổ biên, rồi  nhân đấy mới
      cùng người bản xứ tìm chữ hay để đặt tên.

                                                                             45
   39   40   41   42   43   44   45   46   47   48   49