Page 315 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 315

(Rồi) chia chác (với nhau) làm như bọn quan cai nsục chia bổng lộc.
         (Người ta) hùnư hổ ra quân từ Hứa Xưưna;.
         Lòng  trung cang  và  uy  vũ  (ngất  trời, cứ nhin)  mũ  của dòng thế lộc
   (mà khiếp vía).
         (Nhưng đến lúc cả vạn ông lính cưỡi) ngựa chạy như gió bay.
         (Thì) trơ ra chỉ còn một con sông đầy thây người chết.
         Khi làn cuộc trở vé.
         Nghìn cửa vạn nhà khóc.
         Tiếng than vang động ca làng mạc.
         Oán khí chồng chất thành non cao.
         Ví như có nghe được tiếng trống.
         (Thì) lòng bất nhẫn (mà) cố giữ nước mắt (khỏi) trào ra.
         (Đc) sao lục (cáu chuyện) (gửi về) đất Dĩnh Xuyên dằng dặc ở xa.
         Xcm  nội  dụng  bài  thơ,  lác gia cố nhiên  không  dám  ký  tôn,  ta thấy
   thái  dộ ngang  nhiên của một  người  yêu  nước  thương  dân,  không  một  lời
   hèn hạ quỵ  luỵ thiên triều, còn mía mai cay dộc và lên án  bọn tham quan
   chiến tướng với  những chữ thật danh thép.
         Bài  thơ  như thế làm  sao  gửi  về  dược  đen  Tràng  An  dể  rồi  dược  sĩ
   phu nhà Đường truyền tụng mà giữ lại  và sau chép vào sách Toàn Đườm>
   Thĩì Àt hán giữa các  nho sĩ của hai  nước dã có sự giao du  thân  mật  lắm.
   Nỏ cho phép ta hiểu rằng chế dộ cai trị không cơi mở cũng không dược.
         Nhân đấy. la lại xét dến nhũ'ng trận giặc  xâm lăng.

   (ỈIẶC ĐỔ  BÀ  VÀ  CÔN  LỔN
         Đồ  Bà  là tôn  hòn dáo ư lận cùng  phía Nam của các dáo ở Nam  Hải
   mà tôn chung  là Côn Lỏn. Đường bien giữa phuơng Đỏng và phương Tây
   phải qua eo biển La Sonde cạnh đảo ấy hoặc qua eo Malacca.
         Trung  Hoa  biết  nước  Đồ  Bà  từ   132  Vcà  đã có thông  hiếu  từ hồi  ấy.
   Nhưng vì  quá  xa xói. cũng  không có kiều dân cư ngụ  nên  không  còn  tài
   liệu  gì  để  biết  rõ  nước ấy.  Những di  tích  cổ cũng  rất hiếm.  Chi  còn  một
   tấm  bia  giữa thê kỷ  thứ VII  với  những cổ tích trên đồi  Dieng ở giữa đảo,
   mà  người  ta  luận  rằng  khu  vực  ấy  có  lẽ  xưa  là  kinh  đô  Ho  Ling.  Nhưng
   nhiều người khác cho Ho Ling ở bán đáo Mã Lai'".


      Theo  sử  đời  Đường  thì  kinh  dỏ  Ho  Ling  giũa  thế kỷ  thứ  VII  là  một  trung  lâm
   Phật  giáo  mà  Lục  Tổ  Huệ  Năng  (638-713)  đã  hành  hương  tới  dó  vào  khoáng  nãm
   664-663  và ở lại, dịch kinh  chữ Phạm  ra chữ Hán.
      Các  nhà  cổ  sử cho  tên  Ho  Ling  chính  là  Kalinga,  tên  một  tiểu  quốc ở Nam  Hai
   mà  các  tiếu  quốc  vương  ơ  Kalinga  (Nam  Ân)  bị  dánh  duổi  nên  chạy  dến  dó  dựng
   một  nước rntíi.
                                                                          327
   310   311   312   313   314   315   316   317   318   319   320