Page 316 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 316
Nhờ năm được vị trí then chốt trons việc hàníỊ hải, hồi ây đã phát triển
lại đúng vào thời tàn tạ của Phù Nam, nên Ho Lins trở nên một nước phồn
thịnh với tên là Cnvijaya. Crivijaya từng đcm binh đi đánh đao Java‘'*.
Đảo Java hồi ấy có Scín Vương Sanịaya ngự trị đóng đô ở trung tâm
nơi đồng bằng Kedu có đổi Dieng. Vua này theo đạo Bà La Môn thờ thần
(Ịiva. Sở sĩ biết được là nhờ có bia dựng năm 732 của vua Sanjaya, tìm
thấy trong đống gạch đổ của dền thờ ẹiva. Đó là ổng vua đầu dòng
Cailendras mà người kế vị năm 778 xưng là đại đế Maharaịa Panangkaran
và mở lối phát triển cho Phạt giáo Đại thừa.
Vậy thì Sanjaya Bà La Môn, trị vì Java khoảng 732 tới 778 đã
chống lại nước Crivijaya ở Sumatra. đánh chiếm đao Ba Li, xâm lăng ca
Phù Nam, dánh cả Trung Hoa. Chính vua ấy (hoặc quân của vua ấy cử di)
dã đánh Giao Châu năm 767, mà sứ ta ghi là giặc cỏn Lôn và Đổ Bà.
Giặc đi đường biển, vào lận trung tâm Giao Châu vây hãm phủ đô
hộ lúc ấy là Tư Thành (ở phía Tây Bắc Hà Nội bây giờ). Kinh lược sứ
Trương Bá Nghi cùng với Đô uý Cao Chính Bình phải họp binh đánh
thắng một trận lớn ở gần Sơn Tày bủy giờ mới đuổi dược giặc ra biển. Sau
đó Trương Bá Nghi cho dắp La Thành (767) lấy sông Tô Lịch làm hào
thiên nhiên để phòng thủ.
Việc ấy nay không khỏi gây cho người khảo sử một thắc mắc: giặc
là giặc biển, đường vô xâm lăng phải là đường thuỷ, vậy muốn ngăn giặc
ấy, sao không dắp La Thành ở phía Đông và Đông Nam dọc theo sông
Hồng (nếu giặc vào bàng đường ấy) mà lại đáp thành ở phía Tây và Tây
Bắc theo sông Tỏ Lịch?
Thì đã quả rất dúng rằng dến tận 767 ấy, vùng Hưng Yên vẫn còn là
dầm lầy (đầm Dạ Trạch) và sông Hồng nhiều phù sa túa ra dồng bằng.
Thiền sư Nghĩa Tịnh người Tàu năm 671 di cùng Đại Thặng Đăng Ihién sư người
Ái Châu cùa ta, đến Trung Ân, thăm chùa Na Lan Đà rồi đến Kim Cang toạ, trên
đường có ghé qua đấy ơ sáu tháng học chữ Phạm. Ngài có ghi rằng: ‘Trong thành
Fo Che có h(ín một ngàn sư tăng chuyên nghiên cứu mọi vấn đồ tôn giáo như bên
Thiên Trúc vẠv, lề lục cũng như thế. Nhà sư Tàu nào muốn qua Tày phirơng đê
nghe và đọc được kinh Phật thì nôn ở lại Fo Chc một hai năm học tập Irưức cho
quen, sau đó sc qua Trung Ân” Sau khi ở lại Na Lan Đàn 10 năm, trên đường về,
thiển sư Nghĩa Tịnh lại ghé Fo Chc ư 4 năm từ 68.6-689 để chép và dịch kinh chữ
Phạm sang chữ Hán. Năm 689, ngài về Quáng Đông đón thêm 4 đệ tử rồi trở lại Fo
Chc viết hai tập bút ký vể những cao tăng qua Tây Trúc thính kinh và Nam Hải
pháp môn, trong dó ngài ghi nhận thành Fo Che là nơi ngài ghé năm 671 thì bày giò'
là nước Che Li Fo Che (tức là Crivijaya theo bốn bài bia cổ ở Mã Lai, mà một tấm
có nói rõ là nước Phật giáo vừa chiếm dược dảo Bangka và vùng đất lambi, nay sáp
dem binh di dánh dảo Java vào năm 686 vì dảo này không chịu thần phục).
328