Page 204 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 204
Nhữns phần lử ưu tú (rất hiếm hoi) có thể học để đọc được những
chính kinh chính sử của Khổnsỉ giáo thực ra vốn là sản phẩm đúc kết nên
từ nhữna phong tục của cả đơn vị sống và cả làng. Phong tục là phương
tiện giáo hoá duy nhất đối với dân chúng không biết chữ. Phong tục đã
dùng dư luận khen chê trong làng mà ép cá nhân vào cuộc sốna thuần
lương. Phona tục lại được những mối dày tình cảm của gia đình họ hàng
củng cố đời này qua dời khác.
Khổng giáo đến Giao Châu chí cần có lời hay ý đẹp để làm sáng
thêm những điéu phải mà dàn chúng vẫn đã theo. Báo rằng Khổng giáo
đã khai hoá cho đám dân Giao Chỉ còn man rợ là nói hùa theo giọng kể
công của người đô hộ. Cồng bằng ra mà xét, công của Khổng giáo chí là
đặt tên cho những cái cây đã mọc sẵn trên khu vườn mới mua. Những sự
việc mà Khổng giáo gọi là chân, thiện, nhân nghĩa, lễ, trí, tín... không
đợi đến lúc được đặt tên mới có mà vốn có đã từ lâu trong một nền lễ giáo
do phong tục của làng đã đóng khung con người vào.
Lấy một việc thật cụ thê’ ra nói cho dễ hiểu: hai đứa trẻ mới lên 3 và
lên 4, anh em cùng cha mẹ, chúng lúc nào cũng nhìn thấy nhau, lúc nào
cũng chơi với nhau. Tmh thân yêu của chúng nở ra do việc sống chung
ấy. Khi có dứa trẻ khác dánh thằng anh nó, thằng em vào bênh và đánh
lại. Hỏi những điều dạy luân lý đã dự được gì vào đấy? Hay hành vi hợp
với luân lý ấy đã chỉ do việc sống chung nở ra? Và luân lý đã thể theo đó
mà cỏ đọng thành lời dạy?
Cuộc sống chung tự nhiên có lễ giáo của hai đứa trẻ và cuộc sống
chung tự nhiên có lễ giáo của những người lớn trong làng cũng không
khác gì nhau. Luân lý của Khổng giáo đến sau đã chỉ theo những gì đã có
để giảng dạy mà thôi.
Ngay tại chính quốc Trung Hoa, số người dcìn Trung Hoa không
biết chữ cũng không ít ỏi gì. Khổng giáo có thể sống được và phát triển
được trên đất ấy, một mánh đất lừ xưa vẫn lấy đức để trị dân, và những
đời Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ từng đã là những đời vua có đức để cho
đời sống xã hội có được một dời sống lý tưởng, hay đúng hơn, một thời
đại Hoàng kim cho bao giờ người ta cũng mơ ước được thấy trở lại chính
là nhờ nó đã dựa theo quy mô kiến trúc của lý tưởng cũ mà hệ thống hoá.
Ý niệm thay trời trị dân của những vị dế vương có đức thì còn,
không có đức thì mất và ý niệm về mệnh đã hàm chứa ở trong nó những
tư tưởng thần bí cổ Trung Hoa. Với tất cả tính chất hợp lý của người
Trung Hoa miền Bác, Khổng Tử đã chỉ nói: quỷ thần kính nhi viễn chi,
mà không có lời gì đụng chạm đến nền thần bí cố hữu. Trái lại, ngài vẫn
215