Page 123 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 123

c ư ộ c  TĨẾP XÚC Đ Â lỉ TIÊN  VỚI  VẢN  MINH  MIỂN  n a m  TRUN íỉ  h o a

                Cuộc tiếp xúc đã diẻn  từ từ với  nước  người  Tàu ở miền  Nam Trung
           Hoa qua lại buôn bán. Có khi họ tới bàng thuyền  rồi  lại theo thuyền về. Có
           khi họ ở lại lập cơ sở thương mại trên đất liền, sống lẫn với dân  bủn xứ.
                Cương vị  của họ không phái  cương vị chủ nhân ông, họ dến ăn nhờ
           ở đậu.  Thiên  tính  thương  mại  của giống  dân  ấy  là  uốn  mình  theo tất  cả
           những chế độ  địa  phương  và  uốn  lưỡi  tập nói  theo  người  địa  phương  để
           giao dịch  buôn  bán  kiếm  lời.  Đó là điều phúc đức  vô  cùng,  mưy mán  vỏ
           cùn^  cho  m>ười  Giưo  Chỉ,  dế không  hao  giờ mát  dược  tiếng  nói  và  ván
           minh Trim(> Hoa khỏm> thể làm mất dược giống Giao Chỉ.
                 Thời  gian  tiếp  sau  là  thời  gian  bên  Tàu  có  loạn  Xuân  Thu  Chiên
           Quốc, kéo dài  từ thế kỷ VIII dến thế kỷ thứ III tr.  CN.  Hết thảy các nước
           lớn nhỏ trong lục địa Trung Hoa dều cổ chiến tranh khốc liệt, đẩy một sô
           đông  dân  chúng  rời  khỏi  luc  địa  dể đi  tị  nạn.  Và  phần  lớn  họ  chạy  đên
           Văn Lang.
                 Đó  là  Icàn  sóng dầu tiên của văn minh Trung Hoa ào ạt tiến vào đất
           nước ta. Trong số dàn chúng tị  nạn này có những người biết chữ Nho.  Họ
           dạy  dân  chữ ủ'y.  Nhưng  dạy  theo cái  lối  thuộc  mặt  chữ,  hiểu  nghĩa  chữ,
           còn đọc thì  không  gò ép dúng  như họ.  Thế là một cái mav  vô củng nữa,
           nó giữ cho tiếng của mình nguyên  vẹn, trong khi nó cho mình một hộ chữ
           chung với tất cà các dán  tộc châu Á,  nhưng  riêng  với  mình  thì  thành  bộ
           chữ sau này gọi  là chữ Hán  Việt. Đầu đuôi chí tại  những người Tàu ấy là
           người  người  đến  ở  nhờ,  không  phai  đến  làm  chủ,  nên  không  có  những
           hạch sách đáng lẽ phải có, khi dạy chữ.
                 Trở  về  vấn  đề  danh  xưng  Hùng  Vương  (hay  Lạc  Vương)  với  Lạc
           Hầu,  Lạc  Tướng,  Văn  Lang  v.v...  Những  người  Tàu  này  là  những  người
           không  ưa  cảnh  tranh  bá  dồ  vương,  chết  người  hại  của.  Họ  tới  dây  được
           sống trong cảnh hoàn  lOcàn  yên ổn.  Vua quan chẳng ai  nỡ làm  khó dễ gì.
           Tự  nhiên  họ  cám  thấy  mến  đất  nước  và  người,  dể  cùng  các  nho  sĩ  địa
           phương tìm chữ mà đặt tên cho dân, cho nước, cho vua, cho quan.  Họ lại
           tự gán  họ và đất  đai  quốc  thổ của  họ  vào chung  với  quốc  thổ  của  Hùng
           Vương, cho nó  lan tới  hồ Động Đình,  Ba Thục v.v...  tận  những vùna đất
           mà có khi vua Hùng cũng chi mới nghe thấy lần thứ nhất.

           MƯỜI  LẢM  BỘ

                Theo sự nhận định củíi hồi ấy để rồi ghi vào sử thì Vãn Lang gồm  15 bộ:
                 1.  Văn Lang           (Bạch Hạc, tính Vĩnh Yên)
                2. Châu Diên            (Sơn Tây)

           128
   118   119   120   121   122   123   124   125   126   127   128