Page 127 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 127
hữiiíĩ naày tàn của họ Hùng Vương cũng là những ngày khói lửa
mù mịt trời ở lục địa Trung Hoa.
Tán Thuỷ Hoàng gồm thâu lục quốc. Các khu đất phía Nam sông
Dương Tử đều không thoát khỏi việc binh đao. Tuy hồi đầu (-256), Tần
không tiến xuống đất ta nhưng đã biết có miếng mồi để dành sẵn đó.
Thục chiếm được Văn Lang (-257) đổi tên là Ầu Lạc dựng ngay thành cổ
Loa để tự vệ, nhưng cũng vẫn hồi hộp lo sợ. Cho đến năm - 214 theo Đại
Việt Sử KÝ, Tần Thuỷ Hoàng mới sai hiệu uý là Đồ Thư dem quân đi. Sử
Lộc dào kênh vận lương đổ lấy đất Nam Việt đặt ra Quế Lâm, Nam Hải,
Tượng Quận.
Họ Thục nhân dấy xin thần phục nhà Tán, để tránh cuộc binh đao
và kéo dài thêm thời kỳ tự trị. Vậy là khôn, nhưng đất Âu Lạc trên giấy tờ
đã trở nên dất phụ dung của Tượng Quận. Sách Ngự Phê Thông Giám Tập
Lãm (q.l 1 tờ 6b - lã) chú thích rằng: Nam Việt tức Bách Việt, cũng có
khi gọi lủ Dương Việt. Hán Thư chú nghĩa: Nam Việt họ Mi cùng nước Sở
chung một ông Tổ. Quế Lâm nay lù phủ Quế Lâm, Bình Lạc và Ngô Tầm,
thuộc tỉnh Quảng Tây. Nam Hài nay lù các phủ Quảng Châu, Thiêu
Châu, Trào Châu, Huệ Cháu, Triệu Cao, cũng thuộc tỉnh Quảng Đỏng.
Còn Tượng Quận rộng lâm tức là phủ Liêm, phủ Lỏi ở Quảng Đông, phủ
Khánh Viền, phủ Thúi Bình ở tỉnh Quảng Tây vù nước An Nam hđy giờ''
Như vậy khi họ Thục dứt khỏi họ Hùng Vương, đổi tên nước là Văn
Lang là Âu Lạc thì người Tàu gọi đất của ta là Nam Việt hay Dương Việt,
Lĩnh Nam, Ngũ Lĩnh, gồm chung với Tượng Quận là một quân cùng với
Quế Lâm, Nam Hải thành khu vực người Việt ở phía Nam.
Tên thì như vậy, mà thực cũng đã có một số đồng đảo người Bách
Việt dạt tới cư ngụ trên đất Âu Lạc để chuyển nền văn minh Văn Lang cũ
thành văn minh Lạc Việt.
Bài giải thích còn có câu rằng: lấy đất Lục Lương của Nam Việt đặt ra ba quận
đem 50 vạn dân bị tội đầy sang Ngũ Lĩnh cho ở lẫn với người Việt. Dưới chữ Lục
Lương có chú thích ràng người Lĩnh Nam phần nhiều ở đồi núi tính cứng cỏi cho
nên gọi là Lục Cương.
133