Page 89 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 89

Việt và Trung Việt,  ở   trong  mỗi  xứ  thì  suất  thuê  đinh
       theo  tính  chất  của  mỗi  sở  đất  ruộng.  0   Nam  Việt  thuế
       đất  ruộng có  ba  thứ:  một  là  thuê  ruộng  lúa,  đánh  theo
       sở  đắc  và  giá  thuê  chia  làm  6  hạng  mỗi  mẫu  tây  phải
       nộp  từ 0$10  đến  2$00  hai  là  thuê  đất trồng chia  làm  5
       hạng, mỗi mẫu tây phải nộp từ 0$10 (đất rừng,  đồng cỏ)
       đến 3$00 (đất trồng cau, tiêu, thuốc, trái cây v.v...) ba là
       thuê  đất  nhà  cửa  đánh  theo  diện  tích  và  giá  thuê,  mỗi
       ngưòi chủ ít ra cũng phải nộp 0$10.
          ớ  Bắc Việt thì  hiện nay ruộng lúa chia làm ba hạng,
       phải  nộp  mỗi  mẫu  từ  1$00,  đến  1$90,  đất  chia  làm  5
       hạng (cả  đất ở và  đất trồng)  phải nộp mỗi  mẫu  từ 0$02
       đến 2$30.
          ớ   Trung Việt  thì  ruộng  chia  làm  bốn  hạng  phải  nộp
       thuế mỗi  mẫu  từ  0$78  đến  1$95,  còn  đất  (đất  ở  và  đất
       trồng) thì chia làm sáu hạng phải nộp mỗi  mẫu từ 0$13
       đến  1$95.
          Ngoài  suất thuê chính,  ở Bắc Việt và Trung Việt còn
       có nhiều  món bách phân phụ thuê  để sung vào các món
       chi riêng hoặc các ngân sách tỉnh hạt và xã thôn.
          Đất đai ở các  thành thị ở  Bắc Việt và Trung Việt thì
       đánh thuê theo diện tích và giá thuê, cũng như đất nhà
       cửa  ở  Nam  Việt.  Thứ  thuế  ấy  dùng  về  ngân  sách  của
       thành  thị  hay  của  tỉnh  hạt  chứ  không  thuộc  về  ngân
       sách địa phương như thuê đinh và thuê điền thổ chung.


                             Các thứ th u ế khác


          Ngoài thuê thân và thuế điền thổ, còn các  hạng thuế
       khác  đốì  vói  những  hạng  người  không  sinh  tồn  bằng


                                                                    91
   84   85   86   87   88   89   90   91   92   93   94