Page 94 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 94

VIII. - TIỀN TỆ


         Ngày xưa tiền tệ  nước  ta  không có bản vị.  Đồng thòi
      lưu hành những đĩnh vàng bạc, tiền đồng tiền kẽm, bốn
      thứ ấy đều có tính chất pháp định cả.  Các thứ tiền tệ ấy
      không rõ bắt đầu có tự đòi nào,  nhưng theo các thứ tiền
      xưa  đào  được  ở  dưới  đất  thì  ta  có  thể  đoán  rằng  ở  đòi
      Bắc Thuộc ta đã dùng những tiền đồng của Trung Quốc,
      như  tiền  Hán  Nguyên  thông  bảo  của  triều  Hán,  tiền
      Khai Nguyên thông bảo của triều Đường. Các đĩnh vàng
      đĩnh  bạc  của  Trung  Quốc  có  lẽ  ở  đòi  Bắc  thuộc  cũng
      dùng ở nước ta.  Từ triều  Đinh về sau  đòi vua  nào cũng
      có  đúc  tiền,  như  đòi  Đinh  Tiên  Hoàng  đúc  tiền  đồng
      hiệu  Thái  Bình  thông  bảo,  đòi  Lê  Đại  Hành  đúc  tiền
      đồng  Thiên  Phúc  trấn  bảo,  đời  Lý  Thái  Tôn  đúc  tiền
      đồng hiệu  Minh Đạo  thông bảo.  Các  đời vua Trần cũng
      đúc  tiền  đồng  như  các  đòi  vua  triều  trước.  Đời  Trần
      Minh  Tôn  (1323)  bắt  đầu  đúc  tiền  kẽm  nhưng  vì  dùng
      không  tiện  nên lại bỏ.  Đời  Trần Thuận Tôn,  Lê  Quí Ly
      chấp chính, bắt đầu dùng tiền giấy gọi là hội sao, có các
      hạng giấy 10 đồng vẽ cây đào, 30 đồng vẽ thủy ba,  1 tiền
      vẽ  mây,  2  tiền vẽ  rùa,  3  tiền vẽ  lân,  5  tiền  vẽ  phụng,  1
      quan  vẽ  rồng.  Nhân  dân  ai  có  tiền  phải  đem  nộp  vào
      kho nhà nước, cứ  1  quan tiền đồng thì đổi được  1  quan 2
      tiền  giấy.  Ngưòi  nào  giấu  giếm  cũng  bị  tử  hình  như
      người làm  giấy giả.  Đặc  tính  tiền  ấy cũng như  thứ tiền
      giấy  (papier  monnaie)  cưỡng  hành  của  Chính  phủ  các
      nưóc  Âu  châu  phát  hành,  là  không  có  hiện  kim  chuẩn
      bị,  vì  vậy nên  phải  có  nghiêm  luật  để bắt ép  nhân  dân


      96
   89   90   91   92   93   94   95   96   97   98   99