Page 95 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 95
tiêu dùng.
Trải mấy năm nội thuộc nhà Minh, đến khi Lê Thái
Tô lên ngôi thì tiền đồng trong nước không còn, nên đúc
tiền Thuận Thiên thông bảo định mỗi tiền là 50 đồng.
Đòi Lê Thái Tôn đúc tiền Thiệu Bình, có lệnh cấm
không được từ tiền xấu còn có lỗ xâu được, và định giá
mỗi tiền là 60 đồng.
Đời Hồng Đức lại có lệnh cấm từ tiền xấu. Năm 1528
Mạc Đăng Dung đúc tiền kẽm và tiền sắt rất nhiều. Đến
đời Vĩnh Thọ (1658) lại có lệnh cấm phân biệt tiền tốt
xấu và cấm dùng tiền kẽm tiền sắt. Các đời vua sau vẫn
có lệnh cấm như thế. Đời Cảnh Hưng, việc dụng binh
khiên nhà nước cần chi phí nhiều nên lại cho thông
dụng tiền kẽm và phải mở nhiều sở đúc tiền. Năm cảnh
Hưng thứ 37 (1726) sở đúc tiền ở Thuận Hóa thu rất
nhiều binh khí và đại bác bằng đồng không dùng nữa để
đúc 3 vạn đồng tiền Cảnh Hưng thuận bảo'^\
Trước kia không rõ giá bạc thế nào. Theo sử chép thì
đến đời Cảnh Hưng mới qui định rằng bạc đĩnh, mỗi
lượng giá 2 quan tiền quí^^\
So sánh giá tiền xưa với tiền ngày nay;
Luật Hồng Đức định tiền công một ngày lao dịch là 30 đồng tiền.
Một đạo Chỉ Dụ năm Vinh Thịnh thứ hai (1654) đánh giá một con lợn to là
1 quan một con lợn nhỏ là 5 tiền.
Một đạo Chỉ Dụ năm Khánh Đức thứ tư (1752) định giá 1 con trâu là 5
quan, một con dê là 6 tiền.
Một đạo Chỉ Dụ năm cảnh Hưng thứ tư (1741) định giá bò lớn 5 quan bò
nhỏ 3 quan, lợn 2 quan.
Một đạo Sắc Lệnh năm Gia Long thứ nhất (1802) định giá bò là 5 quan.
Hiện nay một con trâu giá chừng 40$00 mà đời trước giá là 5 quan vậy nay
ta có thể suy rằng 1 quan ỏ đòi trưóc có giá trị bằng 8$00 ngày nay.
Tiền quí là tiền xưa, mỗi tiền giá 60 đồng, tiền gián là tiền hiện dùng ở
đời Hậu Lê, mỗi tiền là 36 đồng, ớ Bắc Việt còn có chỗ dùng những tiền ấy.
97