Page 123 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 123

Đối  với  nhà  nước  thì  xã  thôn  là  một  đơn  vị,  về  việc
       công  nhà  nước  chỉ  biết  toàn  xã  chứ  không  biết  từng
       người.
          Như việc  sưu  thuế,  nhà  nước bổ cho  mỗi làng  một  sô
       nhất  định,  rồi  làng  lo  phân  bổ  cho  dân,  theo  cách  nào
       cũng được,  miễn là thu đủ mà nộp vào kho.
          Công  việc  trong  làng  thường  do  dân  làng  bàn  định,
       chứ  nhà  nước  ít can  thiệp  đến,  mà  nhiều  khi  nhà  nước
       có can thiệp cũng vô hiệu quả, cho nên ở nước ta có câu
       tục ngữ rằng: "Phép vua thua lệ làng".
          Những  việc  làng  đã  bàn  định  thì  có  viên  chức  thi
       hành.  Trên  hết có  một  người  tiên  chỉ  và  một  người  thứ
       chỉ. Tiên thứ chỉ thường là những người hưu quan trí sĩ,
       hoặc  người  khoa  mục  chức  sắc,  nếu  không  thì  người  kỳ
       cựu  lớn  tuổi  nhất  ở  trong  làng.  Tiên  thứ  chỉ  có  quyền
       quyết  đoán  mọi  việc,  và  việc  gì  cũng  tất  phải  hỏi  đến
       tiên thứ chỉ cả.
          Song phần nhiều khi tiên thứ chỉ, chỉ trông nom  việc
       đại cương,  còn  việc  thường  thì  do  kỳ  mục  bàn  định.  Kỳ
       mục là những người cựu chánh phó tổng, cựu chánh phó
       lý  hoặc  là  người  kỳ  cựu  và  hào  trưởng,  phàm  việc  làng
       lớn hay nhỏ,  bọn đương thứ lý dịch tất phải trình vởi họ
       rồi mới thi hành.
          Dưới  dạng  kỳ  mục  là  hạng  lý  dịch  đương  thứ,  mỗi
       làng có  một lý trưởng*'* và một phó lý.  Lý trưởng phó lý


         Đòi xưa các xă thôn không có Lý trưởng do dân cử như ngày nay, mà chỉ
       có  quan  lại  do  triều  đình  đặt,  gọi  là  xã  quan.  Theo  sách  Lịch  triều  Hiên
       chương thì buổi Trần sơ đời Thái Tôn đặt chức ty xã, ngũ phẩm trở lên làm
       đại ty xã, lục phẩm trỏ xuống làm tiểu ty xã, cùng với xã chính, xã giám là
       các xã quan,  phải chăm việc tu tạo hộ tịch, chức nhiệm cũng xem là quan
       trọng. Đời Trần Thuận Tôn thì các chức ấy bị bãi, nhưng sang triều Lê, sau

                                                                   125
   118   119   120   121   122   123   124   125   126   127   128